Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

Bản án số: 132 /2022/HS-PT Ngày: 23 - 11 - 2022

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

  • Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Cường

    Các Thẩm phán: Ông Trần Phước Hiệu, ông Nguyễn Hồng Thái

  • Thư ký phiên tòa: Bà Cao Thị Mai, là Thư ký Toà án của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận.

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tham gia phiên toà: Ông Đỗ Ngọc Bích, Kiểm sát viên.

Trong ngày 23 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 116/2022/TLPT-HS, ngày 27 tháng 10 năm 2022. Do có kháng cáo của bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2021/HS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình.

Bị cáo có kháng cáo Lương Văn Mười, sinh năm 1982; tại tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: Thôn Nam Hải, xã Ninh Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Văn Lợi, sinh năm 1950 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Hoa, sinh năm 1940; Có vợ Nguyễn Thị Kim Hương, sinh năm 1990 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2010. Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 02/3/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội: “Đánh bạc“.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại cùng gia đình ở tại thôn Nam Hải, xã Ninh Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án này còn có 13 bị cáo khác không kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án như sau:

Vào lúc 23 giờ 40 phút ngày 12/10/2019, Lực lượng Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an huyện Bắc Bình kiểm tra, phát hiện

tại khu vực rừng phòng hộ thủy điện Bắc Bình, thuộc thôn Bon Thóp, xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận có nhiều người đang đánh bạc, dưới hình thức: “Xóc đĩa” thắng - thua bằng tiền nên đã tiến hành bắt giữ và lập biên bản.

Thu giữ tại sòng bạc tổng số tiền 88.000.000 đồng, thu giữ trong người của những người có mặt tại sòng bạc số tiền 354.540.000 đồng, gồm: Nguyễn Ngọc Thuận 11.200.000 đồng; Liêu Văn Kim 200.000 đồng; Trần Xuân Tùng 4.100.000 đồng; Trần Văn Lệ 11.500.000 đồng; Nguyễn Tâm Đạt 50.900.000 đồng; Nguyễn Thị Trận 3.400.000 đồng; Nguyễn Thị Thùy Trâm 4.000.000 đồng; Phan Thị Thanh Nhàn 27.800.000 đồng, Phan Thị Thanh Nhã 2.000.000 đồng, Nguyễn Thị Kim Phượng 180.000.000 đồng, Nguyễn Đăng Phong 11.100.000 đồng, Phan Thị Tố Phụng 5.400.000 đồng, Thái Thị Kim Xuân 6.000.000 đồng, Trần Thị Thu Thủy

15.000.000 đồng, Nguyễn Minh Nhựt 2.700.000 đồng, Nguyễn Thị Duyên

6.900.000 đồng, Lưu Đức Bảo Lâm 7.000.000 đồng, Nguyễn Thị Lệ Huyền

1.600.000 đồng, Trần Thị Thanh Phúc 540.000 đồng, Lê Thanh Tùng 2.500.000 đồng, Nguyễn Văn Hòa 400.000 đồng, Châu Anh Vũ 50.000 đồng, Nguyễn Minh Hải 200.000 đồng, Ta Ly Trinh 50.000 đồng. Ngoài ra còn thu giữ một số vật dụng mang theo trong người của người tham gia đánh bạc và người có mặt tại sòng bạc gồm: Nguyễn Ngọc Thuận 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu đen, 01 ví da màu đen, 01 CMND, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Ngọc Thuận; Trần Thị Thanh Nhàn 01 điện thoại di động hiệu hiệu Samsung Galaxy S9, mặt trước màu đen, mặt sau màu tím hồng; Nguyễn Thị Kim Phượng 01 CMND, 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Nguyễn Thị Kim Phượng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A8, màu đen có ốp lưng nhựa trong suốt; Nguyễn Đăng Phong 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu đồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 ví da màu đen và một số đồng ngoại tệ, 01 giấy phép lái xe hạng A1, 01 giấy phép lái xe hạng C, 01 CMND, 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Nguyễn Đăng Phong; Đỗ Văn Vậy 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu trắng; Thái Thị Kim Xuân 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; Trần Văn Lệ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen bạc; Nguyễn Thị Trận 01 điện thoại di động hiệu Nokia. Ngoài ra còn thu giữ tại khu vực sòng bạc 02 xe mô tô (biển số 86B2-503.78 và 86H7-9784). 18 xe ô tô (biển số 49A-144.81; 49A-

226.42; 49A213.86; 51G-210.67; 49A-197.97; 49A-164.95; 49A-174.20; 49A-

173.83; 60A-016.94; 49A-211.72; 51A-391.10; 49A-082.52; 60A-695.57; 49A-

162.68; 49A-203.09; 49A-073.15; 49A-249.07; 49A-133.99). Một số dụng cụ dùng

cho việc đánh bạc (04 tấm bạt ni long, 13 ghế nhựa cao, 24 ghế nhựa loại vừa, 25 ghế nhựa loại nhỏ, 01 bộ dụng cụ xóc đĩa, 01 bộ dụng cụ Sam cô); 02 sổ ghi chép có bìa màu đen khổ nhỏ; 01 sổ ghi chép có bìa màu trắng khổ nhỏ (thu của Trần Thị Thanh Phúc); 01 súng trường có chiều dài 01 mét, nòng súng bằng kim loại dài 64cm, báng súng bằng gỗ dài 36cm, trong ổ đạn của súng có 08 viên đạn.

Quá trình điều tra xác định: Do quen biết nhau từ trước nên vào khoảng đầu tháng 9/2019, Lương Văn Mười, sinh năm 1982, trú tại thôn Nam Hải, xã Ninh Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng cùng Đặng Văn Phong, sinh năm 1984, trú tại thôn Bản Cà, xã Tà Năng, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng gặp nhau, rủ nhau tổ chức sòng bạc cho các con bạc đánh bạc để thu tiền xâu. Đặng Văn Phong và Lương Văn Mười đến gặp Trần Thanh Hùng, sinh năm 1955 ở thôn Kà Líp, xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận thỏa thuận với Hùng về việc thuê địa điểm sân nhà Hùng để tổ chức sòng bạc cho nhiều người đánh bạc, dưới hình thức “Xóc đĩa”, thắng- thua bằng tiền, mục đích để thu tiền xâu, Mười và Phong trả tiền sòng cho Hùng một đêm 500.000 đồng, Hùng đồng ý. Phong và Mười điện thoại thông báo cho các con bạc mà mình có quan hệ quen biết từ trước ở tỉnh Lâm Đồng đến khu vực nhà Hùng để đánh bạc. Khoảng 21 giờ cho đến 21 giờ 30 phút cùng ngày, Phong, Mười sử dụng xe mô tô chở bạt, ghế, bình ắc quy, bóng đèn, chén, dĩa, nhị (vị), ống tuýp sắt lõi rỗng, búa, miếng gỗ để kê đục nhị (vị) đến sân nhà Hùng và một số con bạc tụ tập tại sân nhà Hùng, Phong và Mười tổ chức sòng bạc tại sân nhà Hùng được 02 đêm, Phong và Mười trả tiền sòng (bãi) cho Hùng mỗi đêm 500.000 đồng, thành tiền 1.000.000 đồng, thu lợi bất chính số tiền 1.200.000 đồng. Thấy các con bạc đến đánh bạc gây ồn ào dễ bị phát hiện nên Hùng bảo Phong và Mười dời sòng bạc ra đất rẫy nhà Hùng ở gần rừng phòng hộ Bắc Bình thì Phong và Mười đồng ý. Sau đó Phong và Mười tổ chức sòng bạc tại đất rẫy nhà Hùng ở gần rừng phòng hộ Bắc Bình được 02 đêm, Phong và Mười trả tiền sòng cho Hùng mỗi đêm

500.000 đồng, thành tiền 1.000.000 đồng, thu lợi bất chính số tiền 2.000.000 đồng. Tổng 04 ngày tổ chức sòng bạc tại sân nhà Hùng và đất rẫy nhà Hùng, Phong và Mười thu được tiền xâu 5.200.000 đồng. Khi sòng bạc mới hoạt động thì Phong và Mười tự quản lý, chung tiền, thu xâu, thay phiên với một số con bạc làm cái sóc. Thấy số lượng con bạc đến tham gia đánh bạc ngày càng đông, sợ bị phát hiện nên Hùng không cho Phong và Mười tổ chức sòng bạc tại đất rẫy nhà Hùng nữa mà chỉ địa điểm cho Phong và Mười ra tổ chức sòng bạc tại khu vực rừng phòng hộ thủy điện Bắc Bình, Hùng được Phong và Mười trả tiền công 500.000 đồng tiền chỉ địa điểm, đồng thời Phong và Mười quy ước với Hùng khi Hùng đánh bạc tại sòng thì Phong và Mười không thu tiền xâu của Hùng. Nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng và tạo điều kiện cho các con bạc đến đánh bạc, Lương Văn Mười và Đặng Văn Phong thuê những người quen biết là Vũ Văn Tuân, sinh 1974 ở thôn 5, xã Hòa Nam, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đến làm thuê cho Phong và Mười tại sòng bạc từ cuối tháng 9/2019; Trần Xuân Tùng (Mo), sinh năm 1992 ở thôn Đà Thọ, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm đồng đến làm thuê cho Phong và Mười tại sòng bạc từ đầu tháng 10/2019; Đỗ Văn Quốc, sinh năm 1979 ở Tổ 8, phường Đoàn Kết, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai đến làm thuê cho Phong và Mười tại sòng bạc từ cuối tháng 9/2019; Nguyễn Ngọc Thuận, sinh 1996 ở thôn 4, xã Tà Nung, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đến làm thuê cho Phong và Mười tại sòng

bạc từ đầu tháng 10/2019; Liêu Văn Kim (Đồng), sinh năm 1968 ở thôn 5, xã Tân Châu, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đến làm thuê cho Phong và Mười tại sòng bạc từ ngày 07/10/2019. Phong và Mười phân công Tuân, Kim làm sóc cái; Quốc làm hồ lỳ (lấy bên thua chung bên thắng); Thuận làm thu xâu; Tùng làm nhiệm vụ cảnh giới, chở con bạc vào sòng bạc, mỗi đêm Phong và Mười thu tiền xâu tầm trung bình từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng, Phong và Mười trả tiền công cho Tuân, Kim, Quốc, Thuận, Tùng mỗi người từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng (tùy vào tiền thu xâu nhiều hay ít). Vũ Văn Tuân đã được Phong và Mười trả tiền công 10 đêm, số tiền 3.000.000 đồng, Đỗ Văn Quốc đã được Phong và Mười trả tiền công 10 đêm, số tiền 3.700.000 đồng; Nguyễn Ngọc Thuận đã được Phong và Mười trả tiền công 06 đêm, số tiền 3.000.000 đồng; Liêu Văn Kim đã được Phong và Mười trả tiền công 05 đêm, số tiền 2.500.000 đồng; Trần Xuân Tùng được Phong và Mười trả tiền công 10 đêm, số tiền 5.000.000 đồng; Trần Thanh Hùng đã được Phong và Mười trả tiền sòng 04 đêm, số tiền 2.000.000 đồng và tiền công chỉ địa điểm cho Mười và Phong tổ chức sòng bạc, số tiền 500.000 đồng, tổng cộng 2.500.000 đồng (Bút lục 01-12, 398-413, 460-471, 483-509, 527-551, 564-593, 606-629, 639-671,

683-715, 1815-1816, 1821-1824, 1837-1846, 1860-1863).

Nghe tin Lương Văn Mười và Đặng Văn Phong tổ chức sòng bạc tại khu vực rừng phòng hộ thủy điện Bắc Bình, Trần Quốc Vương, sinh 1992 ở thôn 6, xã Ninh Gia, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng là người quen biết với Phong ngoài xã hội từ trước đó điện thoại cho Phong, Vương xin Phong cho Vương vào sòng bạc của Phong cho các con bạc vay tiền để lấy lãi, Phong đồng ý. Ngày 07/9/2019, Trần Quốc Vương mang theo tiền vào sòng bạc, Vương gặp Phong và xin Phong cho Vương cho vay tại sòng bạc của Phong cho các con bạc vay tiền để lấy lãi, Phong đồng ý. Sau đó Phong nói lại cho Mười biết thì Mười đồng ý. Được sự cho phép của Phong và Mười, Trần Quốc Vương hằng đêm mang theo tiền vào sòng bạc cho các con bạc vay, để giúp Vương trong hoạt động liên quan đến tiền thì Vương thuê Châu Anh Vũ (Ty), sinh năm 1999 ở xã Ninh Gia, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng và Nguyễn Minh Nhựt, sinh 1996 ở xã Nhơn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang đi cùng Vương đến sòng bạc phụ giúp Vương lấy tiền lãi của các con bạc vay tiền của Vương đánh bạc, Vương sẽ trả công cho Vũ (Ty) và Nhựt mỗi người một đêm từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng tùy vào số tiền cho các con bạc vay hằng đêm và số lãi thu được. Khi mới vào sòng bạc cho các con bạc vay thì Vương không biết nhân thân lai lịch của các con bạc nên thông qua Phong và Mười (chủ sòng) giới thiệu thì Vương mới cho các con bạc vay, sau khi các con bạc đã vay tiền của Vương, trả tiền gốc và lãi sòng phẳng thì Vương cho các con bạc vay tiếp, trung bình mỗi đêm Vương thu được tiền lãi cho các con bạc vay hơn 10.000.000 đồng, Vương trả tiền công cho Vũ (Ty) và Nhựt, số tiền lãi còn lại Vương khai đưa cho Thân Huy Vũ (Tù) vì đây là tiền của Vũ (Tù) đưa cho Vương để cho vay, Vũ (Tù) trả tiền công cho Vương một đêm từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Trong thời

gian Vương cho các con bạc vay tại sòng bạc của Phong và Mười thì giữa Vương với Phong và Mười có quy ước là hàng đêm, Phong và Mười cho đặt đèn báo hiệu chớp chớp trên tuyến đường Lâm Đồng đi Đại Ninh để cho Vương biết, khi nào Vương thấy đèn đặt ở đâu thì dừng xe lại chờ, sau đó sẽ có Trần Xuân Tùng (Mo) đến đón Vương vào sòng bạc cho các con bạc vay vì sòng bạc thường xuyên thay đổi địa điểm để tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng. Đến cuối tháng 09/2019 do thấy việc cho các con bạc vay đem lại lợi nhuận cao nên Vương khai Vương đi mượn số tiền 100.000.000 đồng của người quen để hùn vốn với Vũ (Tù) cho các con bạc vay, tính đến ngày bị bắt quả tang Vương chưa thu được tiền lãi từ số tiền 100.000.000 đồng hùn vốn với Vũ (Tù). Trần Quốc Vương khai đã được Vũ (Tù) trả tiền công từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng (Bút lục 412-413, 687-715,

1435-1447, 1464-1478, 1811-1814).

Đặng Văn Phong khai nhận đã tổ chức sòng bạc được từ 10 đến 12 đêm, ban đầu mới tổ chức nên Phong và Mười thu xâu được từ 1.100.000 đồng đến 1.500.000 đồng, sau đó con bạc đến đánh đông nên Phong và Mười thu xâu trung bình từ

5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng, Phong và Mười trả tiền công cho Kim, Tuân, Quốc, Thuận, Tùng và chi trả tiền để mua một số vật dụng phục vụ cho việc đánh bạc. Phong được chia lợi nhuận từ khi bắt đầu tổ chức sòng bạc cho đến khi bị phát hiện từ tiền thu xâu với số tiền từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng; Lương Văn Mười khai đã tổ chức sòng bạc được từ 12 đến 14 đêm, ban đầu mới tổ chức nên Mười và Phong thu xâu được từ 1.100.000 đồng đến 1.500.000 đồng, sau đó con bạc đến đánh đông nên Mười và Phong thu xâu trung bình từ 5.000.000 đồng đến

7.000.000 đồng, Mười và Phong trả tiền công cho Kim, Tuân, Quốc, Thuận, Tùng và chi trả một số tiền mua vật dụng phục vụ cho việc đánh bạc. Mười được chia lợi nhuận từ tiền thu xâu số tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng (Bút lục 408- 411, 1825-1835).

Tối ngày 12/10/2019, sòng bạc tiếp tục tổ chức tại khu vực rừng phòng hộ thủy điện Bắc Bình, Trần Xuân Tùng đến trước cảnh giới, chở con bạc vào sòng bạc. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Phong và Mười đến sòng xóc đĩa, mang theo công cụ, phương tiện phục vụ cho việc đánh bạc, chuẩn bị bài Tây và ống tuýp sắt rỗng, búa, miếng gỗ để Mười đục nhị (vị) đưa cho Liêu Văn Kim, khi có đông các con bạc tập trung, Liêu Văn Kim xóc cái cho các con bạc đặt cược, Đỗ Văn Quốc lấy tiền của người thua chung cho người thắng, Nguyễn Ngọc Thuận thu tiền xâu, Mười và Phong quản lý chung tại sòng bạc, Kim xóc cái hơn 01 tiếng đồng hồ thì Tuân thay Kim làm xóc cái, các con bạc thay phiên nhau dở chén. Đến 23 giờ 45 phút ngày 12/10/2019 cùng ngày, khi Tuân đang xóc cái, có khoảng hơn 40 con bạc tham gia đánh bạc, thì bị lực lượng Công an phát hiện kiểm tra, bắt giữ được một số con bạc tham gia đánh bạc và một số người có mặt tại sòng bạc . Riêng Phong, Mười, Vương và một số con bạc chạy thoát.

Hình thức đánh “Xóc dĩa” được các đối tượng đánh bạc quy định, như sau: Dụng cụ đánh “Xóc dĩa” là 01 chén, 01 dĩa và 04 đồng nhị (vị) hình tròn được cắt ra từ các lá bài Tây 52 cây, người xóc cái bỏ 04 đồng nhị vào trong dĩa, úp chén lên để xóc, sau đó đặt xuống, các con bạc tùy ý đặt cược vào hai bên chẵn hoặc lẻ trên chiếu bạc, mức tiền đặt cược ít nhất 500.000 đồng, còn trên mức này thì không hạn chế. Khi không còn ai đặt cược thì có người đánh bạc (con bạc) nhận mở chén, người xóc cái không mở chén. Khi mở chén, nếu có 02 hoặc 04 đồng nhị ngửa hoặc sấp giống nhau là chẵn, ngược lại khi mở chén có 01 hoặc 03 đồng nhị ngửa hoặc sấp giống nhau là lẻ. Tỷ lệ thắng - thua là 1:1, tức là đặt bao nhiêu tiền, nếu thắng thì được người mở chén trả bấy nhiêu. Liêu Văn Kim và Vũ Văn Tuân xóc cái nhưng không mở chén, các con bạc tham gia đánh bạc được Đỗ Văn Quốc (hồ lỳ) hô chẳn thừa - lẻ thừa, con bạc nào đồng ý mở chén thì sóc cái dỡ chén, tiền thắng - thua mỗi ván do người mở chén xác định thắng - thua với những người tham gia đặt cược ván đó. Mỗi ván, các bên chẵn – lẻ đặt từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng, tổng cộng hai bên chẵn - lẻ số tiền đặt cược từ 20.000.000 đồng đến

30.000.000 đồng (Bút lục 01-12).

Ngoài ra, bên cạnh sòng “Xóc đĩa” còn có hình thức đánh bạc khác dưới hình thức “Xám cô”. Hình thức đánh “Xám cô” quy định, như sau: Người làm cái sử dụng 01 tấm giấy nhựa, trên có kẻ các ô hình vuông nhỏ, kích thước bằng nhau, có 7 chấm tròn màu đen và 7 chấm tròn màu trắng, 03 hoặc 04 chấm trắng tương ứng khi mở chén ra 03 hoặc 04 đồng nhị ngửa mặt trắng, 03 hoặc 04 chấm đen tương ứng khi mở chén ra 03 hoặc 04 đồng nhị ngửa mặt đen. Người chơi đặt cược trên các chấm đó, khi mở chén ra kết quả tương ứng thì người chơi thắng. Tỉ lệ thắng thua được phân định người chơi đặt cược 03 trắng hoặc 03 đen thì tỷ lệ 1 ăn 2,5 lần, đặt cược 04 trắng hoặc 04 đen thì tỷ lệ 1 ăn 9,5 lần.

Nguyễn Ngọc Thuận là người giữ tiền xâu, hàng đêm Thuận thu xâu được số tiền trung bình từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng. Sau khi kết thúc sòng xóc đĩa, Thuận đưa tiền xâu cho Lương Văn Mười và Đặng Văn Phong, Phong và Mười trả tiền công cho Liêu Văn Kim, Vũ Văn Tuân làm sóc cái; Đỗ Văn Quốc làm hồ lỳ, Nguyễn Ngọc Thuận làm thu xâu; Trần Xuân Tùng làm nhiệm vụ canh gác, chở con bạc, chuẩn bị địa điểm mỗi người từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng, số tiền còn lại Lương Văn Mười và Đặng Văn Phong chia nhau. Riêng tối ngày 12/10/2019, Thuận khai đã thu tiền xâu được khoảng hơn 10.000.000 đồng, Thuận để trên chiếu bạc thì bị thu giữ. Việc thu tiền xâu được Đặng Văn Phong và Lương Văn Mười đặt ra như sau: Khi chủ cái mở chén ra mà có 03 đồng nhị ngửa mặt đen, 01 đồng nhị ngửa mặt trắng thì tiến hành thu tiền xâu, theo tỷ lệ 5%/số tiền thắng, tức là cứ 1.000.000 đồng thu 50.000 đồng, 500.000 đồng thu 20.000 đồng.

Từ cuối tháng 9/2019 đến đầu tháng 10/2019, Đặng Văn Phong, Lương Văn Mười tổ chức sòng bạc cho khoảng 30 đến 40 người từ nhiều địa phương khác nhau

đến tham gia đánh bạc dưới sự giúp sức của Liêu Văn Kim, Vũ Văn Tuân, Đỗ Văn Quốc, Nguyễn Ngọc Thuận, Trần Xuân Tùng, Trần Quốc Vương.

Tại thời điểm kiểm tra, phát hiện chỉ chứng minh được đối tượng và số tiền đánh bạc, như sau:

Nguyễn Thị Kim Phượng, sinh năm 1984, trú tại ấp Tân Tiến, xã Xuân Hiệp, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai mang theo 187.000.000 đồng, Phượng sử dụng

17.000.000 đồng để tham gia đánh bạc, đã thua 6.000.000 đồng, ván cuối Phượng đánh 1.000.000 đồng thì bị bắt. Thu giữ trong người của Phượng 170.000.000 đồng tiền cá nhân và 10.000.000 đồng tiền dùng vào việc đánh bạc.

Nguyễn Đăng Phong, sinh năm 1994, trú tại thôn Lạc Thạnh, xã Tu Tra, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng mang theo 11.000.000 đồng, Phong sử dụng

11.000.000 đồng đánh bạc, đánh thắng 600.000 đồng, ván cuối Phong đánh 500.000 đồng thì bị bắt. Thu giữ trong người của Phong 11.100.000 đồng.

Trần Văn Lệ, sinh năm 1982, trú tại thôn Ma Am, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng mang theo 17.000.000 đồng, Lệ sử dụng 17.000.000 đồng đánh bạc, đã thua 2.000.000 đồng, ván cuối Lệ đánh 3.500.000 đồng thì bị bắt. Thu giữ trong người của Lệ 11.500.000 đồng.

Nguyễn Thị Trận, sinh năm 1962, trú tại thôn 5, xã Tân Châu, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng mang theo 5.000.000 đồng, Trận sử dụng 5.000.000 đồng đánh bạc, đã thua 1.100.000 đồng, ván cuối Trận đánh 500.000 đồng thì bị bắt. Thu giữ trong người của Trận 3.400.000 đồng.

Lê Thị Hoài Trâm, sinh năm 1982, trú tại tổ dân phố 1, khu 11, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng mang theo 1.100.000 đồng, sử dụng 1.100.000 đánh bạc và thua hết số tiền trên.

Võ Đình Chiến, sinh năm 2000, trú tại thôn Đà Lâm, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng mang theo số tiền 4.000.000 đồng, sử dụng 4.000.000 đồng đánh bạc, đánh thua 3.500.000 đồng, ván cuối Chiến đánh 500.000 đồng thì bị bắt.

Số tiền 88.000.000 đồng thu trên chiếu bạc và 36.000.000 đồng thu giữ trên người con bạc. Tổng số tiền đánh bạc trong ngày 12/10/2019 là 124.000.000 đồng.

Ngoài ra, tại thời điểm kiểm tra, còn chứng minh được một số người tham gia đánh bạc nhưng không tham gia đánh ván cuối thì bị phát hiện thu giữ.

Nguyễn Thị Hường, sinh năm 1962, trú tại thôn Rchai 2, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng mang theo 1.000.000 đồng đánh bạc và thua hết số tiền trên.

Nguyễn Thị Lệ Huyền, sinh năm 1979, trú tại phường Lộc Phát, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng mang theo 1.800.000 đồng đánh bạc, Huyền sử dụng

1.800.000 đồng đánh bạc, đánh thua 200.000 đồng, không tham gia đánh ván cuối.

Thu giữ trong người của Huyền 1.600.000 đồng.

Trần Vũ Thành, sinh năm 1980, trú tại tổ 1, thôn Bồng Lai, xã Hiệp Thạnh, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng mang theo 1.000.000 đồng, Thành sử dụng

1.000.000 đồng đánh bạc và thua hết số tiền trên.

Lê Văn Tình, sinh năm 1978, thôn Liên Hiệp, xã Nghĩa Hiệp, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng mang theo 5.000.000 đồng, sử dụng 5.000.000 đồng đánh bạc và thua hết số tiền trên.

Tối ngày 12/10/2019, tại nơi đánh bạc còn có Châu Anh Vũ, sinh 1999 trú tại thôn 6, xã Ninh Gia, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Nguyễn Thị Bảo Kim, sinh năm 1987 ở thôn Xuân Thượng, xã Lạc Lâm, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Nguyễn Thị Thùy Trâm, sinh năm 1973, trú tại: Phường 1, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng; Phan Thị Tố Phụng, sinh năm 1958, trú tại thôn Đà Lâm, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Lưu Đức Bảo Lâm, sinh năm 1995 trú tại thôn Quảng Thuận, xã Quảng Lập, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Nguyễn Văn Châu, sinh năm 1980, trú tại thôn Hiệp Trung, xã Hiệp An, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Trần Văn Hợi, sinh năm 1971, trú tại thôn Hải Ninh, xã Ninh Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Phan Ngọc Thanh, sinh năm 1973 trú tại thôn Đà Giang, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Trần Quốc Huy, sinh năm 1981 trú tại thôn 8, xã Ninh Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Nguyễn Như Tháo, sinh năm 1972 ở thôn 7, xã Hòa Linh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; Thái Thị Thịnh, sinh năm 1973 trú tại thôn Nam Hiệp 1, xã Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Ta Ly Trinh, sinh năm 2001 trú tại thôn Ma Am, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Phạm Văn Tề, sinh năm 1974 trú tại thôn Nam Hải, xã Ninh Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Nguyễn Văn Hòa, sinh năm 1972 trú tại thôn Đà Lâm, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Thái Thị Kim Xuân, sinh năm 1975 trú tại thôn Quảng Lợi, xã Quảng Lập, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Nguyễn Tâm Đạt, sinh năm 1997 ở thôn Nam Hiệp 1, xã Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Trần Thị Thu Thủy, sinh năm 1980 ở thôn Nghĩa Hiệp, xã Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Đỗ Văn Vậy, sinh năm 1976 trú tại thôn 13, xã Đinh Trung Hòa, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; Nguyễn Minh Nhựt, sinh năm 1996, trú tại ấp Nhơn Hòa, xã Nhơn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; Nguyễn Thị Duyên, sinh năm 1985, trú tại thôn 3, xã Hòa Sơn, huyện Krông Pông, tỉnh Đắk Lắk; Nguyễn Minh Hải, sinh 1985 trú tại thôn 3A, xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông; Phan Thị Thanh Nhàn, sinh năm 1981 ở khu phố 2, phường Phú Tài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Phan Thị Thanh Nhã, sinh năm 1996 ở thôn Đại Thiện 2, xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận; Trần Thị Thanh Phúc, sinh năm 1997 trú tại thôn 1, Láng Gòn 1, xã Tân Xuân, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận bán giải khát cho những người đánh bạc và một người tên Lê Thanh Tùng chưa xác định được nhân

thân lai lịch, nhưng không chứng minh được việc tham gia tổ chức đánh bạc hay đánh bạc của những người này, do vậy không đủ cơ sở để xử lý.

Vật chứng thu giữ và xử lý trong vụ án:

01 bộ dụng cụ sóc đĩa (01 chén, 01 dĩa, 04 đồng nhị (vị), 01 bộ Xám cô, 04 tấm bạt ni long, 13 ghế nhựa loại cao, 24 ghế nhựa loại vừa, 25 ghế nhựa loại nhỏ, 01 súng trường có chiều dài 01 mét, nòng súng bằng kim loại dài 64cm, báng súng bằng gỗ dài 36cm, trong súng có 08 viên đạn, Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định, kết quả khẩu súng nêu trên là vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí thể thao, không phải là vũ khí quân dụng và 08 viên đạn là đạn chưa bắn, loại đạn thể thao (Bút lục số 337). Các vật chứng trên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình sẽ ra Quyết định chuyển vật chứng, chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình bảo quản, chờ xử lý. Riêng 01 súng trường có chiều dài 01 mét, nòng súng bằng kim loại dài 64cm, báng súng bằng gỗ dài 36cm, trong súng có 08 viên đạn, Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để bảo quản, xử lý theo quy định.

Tổng số tiền là 442.540.000 đồng, trong đó: 88.000.000 đồng thu trên chiếu bạc, thu giữ trong người Nguyễn Ngọc Thuận 11.200.000 đồng; Liêu Văn Kim

200.000 đồng; Trần Xuân Tùng 4.100.000 đồng; Trần Văn Lệ 11.500.000 đồng; Nguyễn Tâm Đạt 50.900.000 đồng; Nguyễn Thị Trận 3.400.000 đồng; Nguyễn Thị Thùy Trâm 4.000.000 đồng; Phan Thị Thanh Nhàn 27.800.000 đồng, Phan Thị Thanh Nhã 2.000.000 đồng, Nguyễn Thị Kim Phượng 180.000.000 đồng, Nguyễn Đăng Phong 11.100.000 đồng, Phan Thị Tố Phụng 5.400.000 đồng, Thái Thị Kim Xuân 6.000.000 đồng, Trần Thị Thu Thủy 15.000.000 đồng, Nguyễn Minh Nhựt

2.700.000 đồng, Nguyễn Thị Duyên 6.900.000 đồng, Lưu Đức Bảo Lâm 7.000.000 đồng, Nguyễn Thị Lệ Huyền 1.600.000 đồng, Trần Thị Thanh Phúc 540.000 đồng, Lê Thanh Tùng 2.500.000 đồng, Nguyễn Văn Hòa 400.000 đồng, Châu Anh Vũ

50.000 đồng, Nguyễn Minh Hải 200.000 đồng, Ta Ly Trinh 50.000 đồng là tiền cá nhân của Thuận, Kim, Tùng, Lệ, Đạt, Trận, Trâm, Nhàn, Nhã, Phượng, Phong, Phụng, Xuân, Thủy, Nhựt, Duyên, Lâm, Huyền, Phúc, Tùng, Hòa, Vũ, Hải, Trinh. Cơ quan điều tra thu giữ, đã chuyển vào tài khoản tiền gởi của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Bắc Bình để xử lý theo quy định.

Cơ quan điều tra thu giữ của: Nguyễn Ngọc Thuận 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu đen, 01 ví da màu đen, 01 CMND, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Ngọc Thuận; Trần Thị Thanh Nhàn 01 điện thoại di động hiệu hiệu Samsung Galaxy S9, mặt trước màu đen, mặt sau màu tím hồng; Nguyễn Thị Kim Phượng 01 CMND, 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Nguyễn Thị Kim Phượng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A8, màu đen có ốp lưng nhựa trong suốt; Nguyễn Đăng Phong 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu đồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia

màu đen, 01 ví da màu đen và một số đồng ngoại tệ, 01 giấy phép lái xe hạng A1, 01 giấy phép lái xe hạng C, 01 CMND, 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Nguyễn Đăng Phong; Đỗ Văn Vậy 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu trắng; Thái Thị Kim Xuân 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; Trần Văn Lệ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen bạc; Nguyễn Thị Trận 01 điện thoại di động hiệu Nokia.

Cơ quan điều tra thu giữ 18 xe ô tô gồm: xe ô tô biển số 49A-144.81; 49A-

226.42; 49A213.86; 51G-210.67; 49A-197.97; 49A-164.95; 49A-174.20; 49A-

173.83; 60A-016.94; 49A-211.72; 51A-391.10; 49A-082.52; 60A-695.57; 49A-

162.68; 49A-203.09; 49A-073.15; 49A-249.07; 49A-133.99) và 02 xe mô tô biển số 86B2-503.78, 86H7-9784.

Qua điều tra xác định số tang vật thu giữ trên không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại tài sản không dùng vào việc tổ chức đánh bạc, đánh bạc và không phải là tài sản từ việc phạm tội mà có cho:

Nguyễn Ngọc Thuận 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu đen, 01 ví da màu đen, 01 CMND, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Ngọc Thuận;

Trần Thị Thanh Nhàn 01 điện thoại di động hiệu hiệu Samsung Galaxy S9, mặt trước màu đen, mặt sau màu tím hồng;

Nguyễn Thị Kim Phượng 01 CMND, 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Nguyễn Thị Kim Phượng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A8, màu đen có ốp lưng nhựa trong suốt;

Nguyễn Đăng Phong 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu đồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 ví da màu đen và một số đồng ngoại tệ, 01 giấy phép lái xe hạng A1, 01 giấy phép lái xe hạng C, 01 CMND, 01 thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Nguyễn Đăng Phong;

Đỗ Văn Vậy 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu trắng;

Thái Thị Kim Xuân 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; Trần Văn Lệ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, bạc; Nguyễn Thị Trận 01 điện thoại di động hiệu Nokia.

Xe mô tô biển số: 86H7-9784 do Nguyễn Thị Thu Lài đứng tên chủ sở hữu, Lài giao cho Lê Đình Phong (chồng Lài) sử dụng, Phong đi vào khu vực sòng bạc, Lài không biết nên trả lại xe mô tô trên cho Nguyễn Thị Thu Lài.

Xe mô tô 86B2-503.78 do Lầu Nhộc Cú đứng tên chủ sở hữu, Cú giao cho

Thòn Tắt Diễn, sinh năm 2000 (con của Lầu Nhộc Cú) làm phương tiện đi lại, Diễn đi vào sòng bạc, Lầu Nhộc Cú không biết nên trả lại xe mô tô trên cho Lầu Nhộc Cú.

Xe ô tô biển số 49A-144.81 do Lương Tâm Thùy Trang đứng tên chủ sở hữu, Trang ủy quyền cho Huỳnh Phong Phú (chồng Trang) bảo quản, Phú cho Nguyễn Tâm Đạt thuê xe nhưng không biết Đạt đi đến sòng bạc nên trả lại xe ô tô trên cho Huỳnh Phong Phú.

Xe ô tô biển số 49A-226.42 do Đỗ Văn Vậy đứng tên chủ sở hữu, Vậy điều khiển đến khu vực gần sòng bạc để đón khách nên trả lại xe ô tô trên cho Đỗ Văn Vậy.

Xe ô tô biển số 49A-213.86 do Lâm Thị Minh Yến đứng tên chủ sở hữu, Yến điều khiển chở khách đến khu vực sòng bạc, không biết khách đi đánh bạc nên trả lại xe ô tô trên cho Lâm Thị Minh Yến.

Xe ô tô biển số 51G-210.67 do Phan Thị Thùy Trang đứng tên chủ sở hữu, Trang giao cho Võ Đức Thạch bảo quản, Thạnh cho Trần Quốc Vương thuê xe nhưng không biết Vương dùng chiếc xe trên để đi vào sòng bạc cho các con bạc vay nên trả lại xe ô tô trên cho Phan Thị Thùy Trang.

Xe ô tô biển số 49A-197.97 do Công ty TNHH Đồng Thúy đứng tên chủ sở hữu, Công ty TNHH Đồng Thúy giao cho Trần Quốc Huy là tài xế của Công ty, Huy chở khách đến sòng bạc, nên trả lại xe ô tô trên cho Công ty TNHH Đồng Thúy.

Xe ô tô biển số 49A-164.95 do Công ty TNHH Đồng Thúy đứng tên chủ sở hữu, Công ty TNHH Đồng Thúy giao cho Trần Văn Hợi là tài xế của Công ty, Hợi chở khách đến sòng bạc, nên trả lại xe ô tô trên cho Công ty TNHH Đồng Thúy.

Xe ô tô biển số 49A-174.20 do Trần Vũ Thành đứng tên chủ sở hữu, Thành chở khách đến sòng bạc, nên trả lại xe ô tô trên cho Trần Vũ Thành.

Xe ô tô biển số 49A-173.83 do Mai Văn Tình đứng tên chủ sở hữu, Tình giao cho Phạm Văn Tề là tài xế để chở khách, Tề chở khách đến sòng bạc, Tình không biết nên trả lại xe ô tô trên cho Mai Văn Tình.

Xe ô tô biển số 63A-016.94 do Nguyễn Nhựt Bình đứng tên chủ sở hữu, Bình ủy quyền cho Nguyễn Như Anh Khôi quản lý sử dụng, Khôi giao cho Nguyễn Như Tháo là tài xế để chở khách, Tháo chở khách đến sòng bạc để kiếm người đòi nợ, Khôi không biết nên trả lại xe ô tô trên cho Nguyễn Như Anh Khôi.

Xe ô tô biển số 49A-211.72 do Nguyễn Thanh Vân đứng tên chủ sở hữu, Vân ủy quyền cho Nguyễn Thanh Tùng bảo quản, sử dụng, mua bán. Nguyễn Thanh Tùng bán chiếc xe trên cho Đỗ Sơn Vinh. Vinh cho Phan Ngọc Thanh thuê, Thanh chở khách đến sòng bạc, Vinh không biết nên trả lại xe ô tô trên cho Đỗ Sơn Vinh.

Xe ô tô biển số 51A-391.10 do Trương Dương Lãnh đứng tên chủ sở hữu, Lãnh bán chiếc xe trên cho Lê Duy Na, Na cho Phan Văn Bình thuê, Bình chở khách đến sòng bạc, Na không biết nên trả lại xe ô tô trên cho Lê Duy Na.

Xe ô tô biển số 49A-082.52 do Nguyễn Trung Nam đứng tên chủ sở hữu, Nam ủy quyền cho Nguyễn Trung Hậu quản lý, sử dụng. Hậu cho Nguyễn Văn Hòa thuê, Hòa điều khiển xe đến sòng bạc, Hậu không biết nên trả lại xe ô tô trên cho Nguyễn Trung Hậu.

Xe ô tô biển số 60A-695.57 do Nguyễn Thị Kim Phượng đứng tên chủ sở hữu, Phượng điều khiển xe đến sòng bạc để tham gia đánh bạc, Phượng không dùng chiếc xe này vào việc đánh bạc, nên trả lại xe ô tô trên cho Nguyễn Thị Kim Phượng.

Xe ô tô biển số 49A-162.68 do Nguyễn Tiến Được đứng tên chủ sở hữu, Được điều khiển xe đến sòng bạc để đòi nợ, Được không dùng chiếc xe này vào việc đánh bạc, nên trả lại xe ô tô trên cho Nguyễn Tiến Được.

Xe ô tô biển số 49A-203.09 do Nguyễn Thị Thu Vân đứng tên chủ sở hữu, Vân ủy quyền cho Đỗ Sơn Vinh (chồng của Vân) bảo quản, Vinh giao xe cho Tô Xuân Huỳnh là tài xế chở khách thuê cho Vinh, Huỳnh chở khách đến sòng bạc, Vinh không biết nên trả lại xe ô tô trên cho Đỗ Sơn Vinh.

Xe ô tô biển số 49A-073.15 do Thái Thị Kim Xuân đứng tên chủ sở hữu, Xuân giao xe cho Lê Quang Huy là tài xế chở khách thuê cho Xuân, Huy chở khách đến sòng bạc, Xuân không biết nên trả lại xe ô tô trên cho Thái Thị Kim Xuân.

Xe ô tô biển số 49A-249.07 do Lê Hùng Anh đứng tên chủ sở hữu, Anh cho Nguyễn Minh Hải thuê, Hải chở khách đến sòng bạc, Anh không biết nên trả lại xe ô tô trên cho Lê Hùng Anh.

Xe ô tô biển số 49A-133.99 do Nguyễn Đại Nam đứng tên chủ sở hữu, Nam cho Đặng Ri mượn đi công việc, Đặng Ri điều khiển xe đến sòng bạc để đòi nợ, Nam không biết nên trả lại xe ô tô trên cho Nguyễn Ðại Nam.

Đối với 02 sổ ghi chép có bìa màu đen khổ nhỏ và 01 sổ ghi chép có bìa màu trắng khổ nhỏ thu của Trần Thị Thanh Phúc. Qua điều tra xác định 01 cuốn sổ ghi chép có bìa màu đen khổ nhỏ là sổ của Trần Quốc Vương, Vương dùng sổ này để ghi lại ngày vào sòng bạc cho các con bạc vay, tên con bạc vay và số tiền con bạc vay làm căn cứ để Vương thu tiền lãi (tiền Râu) và tiền gốc của các con bạc. 01 sổ ghi chép có bìa màu trắng khổ nhỏ thu của Trần Thị Thanh Phúc là sổ của Phúc, Phúc dùng sổ này để ghi lại tiền các con bạc mua đồ ăn thức uống thiếu của Phúc để Phúc biết lấy tiền. Riêng 01 cuốn sổ ghi chép bìa màu đen khổ nhỏ chưa xác định được của ai, nội dung ghi trong cuốn sổ. 03 cuốn sổ này được lưu vào hồ sơ vụ án.

Nguyễn Thị Duyên mang số tiền 6.900.000 đồng đến sòng bạc dự định lấy số

tiền 900.000 đồng để đánh bạc nhưng chưa đánh thì bị phát hiện; Nguyễn Thị Bảo Kim mang số tiền 3.000.000 đồng đến sòng bạc để đánh bạc nhưng chưa kịp đánh thì bị phát hiện, Kim bỏ chạy đánh rơi số tiền 3.000.000 đồng mang theo; Nguyễn Thị Thùy Trâm mang số tiền 1.000.000 đồng đến sòng bạc để đánh bạc thì có một người đàn ông đưa cho Trâm 3.000.000 đồng nhờ Trâm đánh giúp, Trâm chưa kịp đánh thì bị phát hiện, thu giữ của Thùy Trâm số tiền 4.000.000 đồng; Phan Thị Tố Phụng mang số tiền 5.400.000 đồng đến sòng bạc dự định lấy 500.000 đồng để ké các con bạc khác nhưng chưa kịp ké thì bị phát hiện, thu giữ của Phụng số tiền

5.400.000 đồng; Nguyễn Văn Châu đi cùng bạn đến sòng bạc mục đích khi nào bạn của Châu đánh bạc thắng thì Châu mượn tiền đánh bạc nhưng Châu chưa kịp mượn tiền đánh bạc thì bị phát hiện; Phan Thị Thanh Nhàn mang số tiền 27.800.000 đồng đến sòng bạc dự định lấy số tiền 5.000.000 đồng để đánh bạc nhưng chưa đánh thì bị phát hiện, thu giữ của Nhàn 27.800.000 đồng. Lê Thanh Tùng mang số tiền

2.500.000 đồng đến sòng bạc mục đích đánh bạc nhưng chưa đánh thì bị phát hiện, thu giữ của Tùng số tiền 2.500.000 đồng. Duyên, Kim, Thùy Trâm, Phụng, Châu, Nhàn, Tùng thừa nhận mục đích đến sòng bạc để đánh bạc, vì vậy Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Duyên, Kim, Thùy Trâm, Phụng, Châu, Nhàn là đúng quy định. Riêng người khai nhận Lê Thanh Tùng, qua điều tra xác minh tại địa phương thì không có ai tên Lê Thanh Tùng nên không có căn cứ để xử phạt hành chính theo quy định.

Đối với số tiền thu giữ qua điều tra chứng minh các bị can Trần Văn Lệ, Nguyễn Thị Kim Phượng, Nguyễn Đăng Phong, Nguyễn Thị Trận và những người có mặt tại sòng bạc Nguyễn Thị Lệ Huyền, Nguyễn Thị Duyên, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Thùy Trâm, Lê Thanh Tùng, Phan Thị Tố Phụng sẽ dùng số tiền này vào việc đánh bạc, đây là tiền dùng vào việc phạm tội. Vì vậy đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước của Trần Văn Lệ 11.500.000 đồng, Nguyễn Thị Kim Phượng

10.000.000 đồng, Nguyễn Đăng Phong 11.100.000 đồng, Nguyễn Thị Trận

3.400.000 đồng, Nguyễn Thị Lệ Huyền 1.600.000 đồng, Nguyễn Thị Duyên

900.000 đồng, Phan Thị Thanh Nhàn 5.000.000 đồng, Nguyễn Thị Thùy Trâm

4.000.000 đồng, người khai nhận Lê Thanh Tùng 2.500.000 đồng, Phan Thị Tố Phụng 500.000 đồng, tổng cộng 50.500.000 đồng.

Đối với số tiền thu giữ qua điều tra không chứng minh được các bị can Nguyễn Ngọc Thuận, Liêu Văn Kim, Nguyễn Thị Kim Phượng và những người có mặt tại sòng bạc Nguyễn Tâm Đạt, Phan Thị Thanh Nhàn, Phan Thị Thanh Nhã, Phan Thị Tố Phụng, Thái Thị Kim Xuân, Trần Thị Thu Thủy, Nguyễn Minh Nhựt, Nguyễn Thị Duyên, Lưu Đức Bảo Lâm, Trần Thị Thanh Phúc, Nguyễn Văn Hòa, Châu Anh Vũ, Nguyễn Minh Hải, Ta ly Trinh dùng số tiền trên vào việc đánh bạc, vì vậy xem xét trả lại cho Nguyễn Ngọc Thuận 11.200.000 đồng, Liêu Văn Kim

200.000 đồng, Nguyễn Thị Kim Phượng 170.000.000 đồng, Nguyễn Tâm Đạt

50.900.000 đồng, Phan Thị Thanh Nhàn 22.800.000 đồng, Phan Thị Thanh Nhã

2.000.000 đồng, Phan Thị Tố Phụng 4.900.000 đồng, Thái Thị Kim Xuân 6.000.000 đồng, Trần Thị Thu Thủy 15.000.000 đồng, Nguyễn Minh Nhựt 2.700.000 đồng, Nguyễn Thị Duyên 6.000.000 đồng, Lưu Đức Bảo Lâm 7.000.000 đồng, Trần Thị Thanh Phúc 540.000 đồng, Nguyễn Văn Hòa 400.000 đồng, Châu Anh Vũ 50.000 đồng, Nguyễn Minh Hải 200.000 đồng, Ta Ly Trinh 50.000 đồng, tổng cộng 299.940.000 đồng.

Trần Xuân Tùng (Mo) được Phong thuê đến sòng bạc để làm nhiệm vụ đưa đón các con bạc vào sòng bạc, phụ giúp thu tiền xâu. Trần Xuân Tùng là đồng phạm với Lương Văn Mười và Đặng Văn Phong, về tội “Tổ chức đánh bạc“, bắt quả tang thu giữ của Tùng số tiền 4.100.000 đồng, sau khi cho Tùng về, Tùng bỏ trốn. Đặng Văn Phong khai đã trả công cho Tùng 5.000.000 đồng, đây là thu nhập bất chính. Cơ quan điều tra đã khởi tố bị can, ra lệnh truy nã, tách vụ án và số tiền 4.100.000 đồng, số tiền thu nhập bất chính của Tùng 5.000.000 đồng để xử lý.

Văn Đình Nguyên (Lớn), sinh năm 1971 ở thôn 7, xã Tân Châu, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng làm Sam cô trong sòng bạc do Phong và Mười làm chủ sòng, việc đánh Sam cô tuy có sử dụng kết quả từ sòng sóc đĩa nhưng lại độc lập trong việc đặt cược và chung chi thắng thua với sòng sóc đĩa và đến nay chưa chứng minh được các con bạc tham gia đánh Sam cô đồng thời Nguyên bỏ đi khỏi địa phương nên chưa làm việc được với Nguyên, vì vậy, Cơ quan điều tra tách vụ án, tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Thân Huy Vũ là người mà Vương khai có liên quan đến hoạt động cho vay của Vương tại sòng bạc nhưng hiện nay Thân Huy Vũ bỏ đi khỏi địa phương nên chưa làm việc được với Vũ vì vậy, Cơ quan điều tra tách vụ án, tiếp tục xác minh làm rõ, xem xét xử lý sau.

Trần Thanh Hùng khai còn có người làm Sam cô tên Cường nhưng không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý theo quy định.

Khi bắt quả tang có người khai nhận Lê Văn Tình, sinh năm 1978 có hộ khẩu ở khu phố 2, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng khai có mang theo số tiền 5.000.000 đồng để đánh bạc và thua hết số tiền 5.000.000 đồng. Sau khi được Cơ quan điều tra cho người khai nhận tên Trần Văn Toàn, sinh năm 1978 ở Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng cho bảo lĩnh Tình về địa phương. Cơ quan điều tra mời Lê Văn Tình làm việc thì được địa phương cung cấp không có ai tên Lê Văn Tình có địa chỉ nêu trên. Cơ quan điều tra xác minh thì tại địa phương không có ai tên Lê Văn Tình và Trần Văn Toàn như khai nhận tại Cơ quan điều tra nên không có căn cứ để xử lý theo quy định.

Nguyễn Thị Hường mang theo số tiền 1.000.000 đồng vào sòng bạc, Nguyễn

Thị Lệ Huyền mang theo số tiền 1.800.000 đồng vào sòng bạc, Trần Vũ Thành mang theo số tiền 1.000.000 đồng vào sòng bạc. Hường, Thành thừa nhận đến sòng bạc để chơi xóc đĩa nhưng đã thua hết tiền, riêng Huyền thừa nhận đến sòng để chơi xóc đĩa nhưng chỉ ké người khác thua hết số tiền 200.000 đồng, còn 1.600.000 đồng khi đang đứng xem thì bị bắt, không tham gia đánh ván cuối. Hường, Huyền, Thành chưa có tiền án, tiền sự về tội: “Đánh bạc” nên không có căn cứ để xem xét xử lý Hường, Huyền, Thành về tội: “Đánh bạc”. Cơ quan điều tra đã chuyển xử lý hành chính Hường, Huyền, Thành theo quy định.

Vũ Văn Tuân được nhận số tiền 3.000.000 đồng từ việc làm xóc cái; Đỗ Văn Quốc được nhận số tiền 3.700.000 đồng từ việc làm hồ lỳ; Nguyễn Ngọc Thuận được nhận số tiền 3.000.000 đồng từ việc làm thu xâu; Liêu Văn Kim được nhận số tiền 2.500.000 đồng từ việc làm sóc cái; Trần Thanh Hùng được nhận số tiền

2.500.000 đồng từ việc cho thuê địa điểm tổ chức sòng bạc và chỉ địa điểm cho Phong và Mười tổ chức sòng bạc; Trần Quốc Vương nhận số tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng tiền công từ việc cho các con bạc vay.

Mặc dù Đặng Văn Phong chỉ thừa nhận tổ chức sòng bạc từ 10 đêm đến 12 đêm, Phong được chia lợi nhuận từ việc tổ chức sòng bạc từ 7.000.000 đồng đến

8.000.000 đồng và Lương Văn Mười chỉ thừa nhận tổ chức sòng bạc từ 12 đêm đến 14 đêm, Mười được chia lợi nhuận từ việc tổ chức sòng bạc từ 10.000.000 đồng đến

12.000.000 đồng nhưng qua các chứng cứ đã được Cơ quan điều tra thu thập như lời khai nhận của Trần Quốc Vương, Châu Anh Vũ, Nguyễn Minh Nhựt, Trần Thanh Hùng, Trần Thị Thanh Phúc xác nhận Phong và Mười tổ chức sòng bạc từ đầu tháng 9/2019; cuốn sổ tay khổ nhỏ bìa màu đen của Trần Quốc Vương thu được tại sòng bạc, Vương khai dùng sổ này ghi lại ngày vào sòng bạc cho các con bạc vay từ ngày 07/9/2019 đến ngày 06/10/2019 thì Vương hết tiền cho các con bạc vay tính là 31 ngày ( đêm) tại khu vực thủy điện Bắc Bình, đủ cơ sở kết luận Phong và Mười đã tổ chức sòng bạc được ít nhất 31 ngày (đêm), một ngày Phong và Mười thu tiền xâu từ việc tổ chức sòng bạc trung bình từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng, số tiền Phong và Mười đã thu tiền xâu từ việc tổ chức sòng bạc ít nhất là 155.000.000 đồng. Phong và Mười đã trả tiền công cho Kim, Tuân, Quốc, Thuận, Hùng, Tùng tổng cộng 19.700.000 đồng, còn lại là 135.300.000 đồng và 04 ngày Phong và Mười tổ chức sòng bạc tại khu vực nhà Trần Thanh Hùng, số tiền thu xâu 5.200.000 đồng, tổng cộng 160.200.000 đồng.

Trần Quốc Vương khai cuốn sổ bìa màu đen khổ nhỏ mà Công an huyện Bắc Bình thu giữ lưu trong hồ sơ là sổ của Vương cho vay, Vương ghi lại ngày vào sòng cho vay, tên người vay, số tiền cho vay và tiền lãi để Vương dựa vào đó thu tiền gốc và tiền lãi của con bạc vay tiền của Vương tại sòng bạc. Đồng thời Châu Anh Vũ, Nguyễn Minh Nhật khai cuốn sổ bìa màu đen khổ nhỏ mà Công an huyện Bắc Bình thu giữ lưu trong hồ sơ là sổ của Vương cho vay tại sòng. Sau khi Cơ quan điều tra

tống đạt kết luận điều tra bổ sung lần thứ hai số 116 ngày 28/12/2020, Viện kiểm sát phúc cung bị cáo Trần Quốc Vương, Vương khai nại cho rằng cuốn sổ bìa đen khổ nhỏ mà Công an thu giữ tại hiện trường là của Vương, sổ này có nội dung Vương ghi lại tên người vay tiền của Vương, người vay tiền của Vương gồm có người vay tại nhà và vay trong sòng bạc, người vay tiền dùng vào việc gì thì Vương không rõ, các con số ghi trong cuốn sổ là do Vương tự ghi, thích ghi gì thì ghi chứ không có ý nghĩa gì hết nhưng Vương không lý giải được lý do vì sao ngày 11/12/2019, Vương khai cuốn sổ bìa màu đen khổ nhỏ là sổ Vương mang vào sòng bạc cho các con bạc vay, thể hiện ngày cho vay, tên người vay, số tiền vay, tiền lãi (tức Râu); các con bạc vay tiền của Vương tại sòng bạc để đánh bạc, Vương ghi lại để biết thu tiền gốc và tiền lãi.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2021/HS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình đã xử:

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 322; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 54, Điều 56, Điều 58, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

  • Tuyên bố: Bị cáo Lương Văn Mười phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

  • Xử phạt bị cáo Lương Văn Mười 26 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù tại Bản án số 14/2018/HSST ngày 02/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Tổng hợp chung hình phạt cả hai bản án buộc bị cáo Lương Văn Mười phải chấp hành là 44 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án. Thời gian tạm giữ từ ngày 24/3/2017 đến ngày 11/5/2017 của Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2018/HSST, ngày 02/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt.

    Ngày 20/7/2022, bị cáo Lương Văn Mười kháng cáo cho rằng hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ đang mang thai và mắc bệnh ung thư, bị cáo phải nuôi 02 con còn nhỏ và chăm sóc mẹ già. Vì theo bạn rủ rê mà nhất thời phạm tội, trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã thành thật ăn năn hối cải, thật thà khai báo, giúp đỡ cơ quan chức năng nhanh chóng làm sáng tỏ nội dung vụ án, nên bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

    Tại phiên tòa phúc thẩm:

  • Bị cáo Lương Văn Mười vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo.

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận phát biểu ý kiến về vụ án và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được

tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

  1. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lương Văn Mười thừa nhận hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết về tội “Tổ chức đánh bạc” là đúng, không oan.

  2. Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

    [2.1] Ngày 02/3/2018, bị cáo Lương Văn Mười đã bị Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng, về tội: “Đánh bạc“.

    [2.2] Đáng lẽ ra, bị cáo phải lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân. Nhất là trong thời gian thử thách bị cáo phải tuyệt đối chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

    [2.3] Nhưng ngược lại, chỉ vì muốn có tiền mà không phải lao đồng, nên bị cáo đã cùng Đặng Văn Phong, sinh năm 1984, trú tại thôn Bản Cà, xã Tà Năng, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng tổ chức sòng bạc cho các con bạc đánh bạc để thu tiền xâu và đã bị bắt vào ngày 12/10/2019 tại sòng bạc do bị cáo và Đặng Văn Phong tổ chức tại khu vực rừng phòng hộ thủy điện Bắc Bình, thuộc thôn Bon Thóp, xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Điều đó thể hiện bị cáo là người rất xem thường pháp luật.

    [2.4] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo có được, như: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có hoàn cảnh gia đình khó khăn: Bị cáo hiện đang nuôi mẹ già và vợ bị bệnh viêm đa xoang, đâu đầu căn nguyên mạch, nhược cơ nhóm IIA không có khả năng lao động, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính 79.700.000 đồng, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

    Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo là người chủ mưu, cầm đầu, đang trong thời gian thử thách án treo lại tiếp tục phạm tội, thuộc trường hợp tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

  3. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên, Tòa án huyện Bắc Bình áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự và xử 02 năm, 02 tháng tù, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là đã xem xét cho bị cáo, không nặng.

  4. Tuy nhiên, khi áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, Tòa án cấp sơ không nêu lý do của việc áp dụng Điều 54 là thiếu sót, nên cần rút kinh nghiệm.

  5. Từ những căn cứ trên, nên kháng cáo của bị cáo sẽ không được chấp nhận, Bản án sơ thẩm vì vậy được giữ nguyên như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tại phiên tòa phúc thẩm.

  6. Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

  7. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng

cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lương Văn Mười. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2021/HS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình;

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 322, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 54, Điều 56, Điều 58, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Tuyên xử:

  • Tuyên bố: Bị cáo Lương Văn Mười phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

  • Xử phạt bị cáo Lương Văn Mười 02 (hai) năm 02 (hai) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù của Bản án số 14/2018/HSST ngày 02/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Buộc bị cáo Lương Văn Mười phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày chấp hành án.

Thời gian tạm giữ từ ngày 24/3/2017 đến ngày 11/5/2017 của Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2018/HSST, ngày 02/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

- Bị cáo Lương Văn Mười phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Án xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 23/11/2022.

Nơi nhận:

  • VKSND tỉnh Bình Thuận;

  • TA (02), VKS, CA huyện Bắc Bình;

  • Sở tư pháp tỉnh Bình Thuận;

  • Phòng PV 06 Công an tỉnh Bình Thuận;

  • Những người tham gia tố tụng;

  • UBND xã Ninh Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng;

  • Tổ HCTP – Tòa án tỉnh;

  • Lưu: THS, HS.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ

Đặng Văn Cường

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 132/2022/HS-PT ngày 23/11/2022 của TAND tỉnh Bình Thuận

  • Số bản án: 132/2022/HS-PT
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 23/11/2022
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Thuận
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Bị cáo Lương Văn Mười tội đánh bạc Điều 248 BLHS
Tải về bản án