Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 11/2024/KDTM-PT Ngày: 27/5/2024

V/v “Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty về mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông”.

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

  1. Công ty TNHH N3. Địa chỉ: Tầng B Tòa nhà B T, phường A, quận S,thành phố Đà Nẵng.

    Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Cao H1, vắng mặt.

  2. Ông Ngô Sỹ Việt P, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tổ D, phường M, quận N,thành phố Đà Nẵng, có mặt.

  3. Ông Lê Cao H1, sinh năm 1987. Địa chỉ liên hệ: K856/17 T, Tổ F,phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

  4. Ông Đinh Văn N, sinh năm 1982. Địa chỉ: Lô B khu B, khu dân cư Ncầu C, thôn M, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

  5. Ông Nguyễn Ngọc Thanh L1, sinh năm 1983. Địa chỉ: A N, Tổ E,phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

Người kháng cáo: Bị đơn Công ty Cổ phần N2 và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện ghi ngày 05/5/2023, các trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Công ty TNHH K2 và đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH K2 (sau đây gọi tắt là K2) trình bày:

Công ty Cổ phần N2 (sau đây gọi tắt là Napa G), trụ sở chính số C T,phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng được đăng ký thành lập lần đầu ngày 22/10/2018, đăng ký thay đổi lần thứ 5 ngày 02/7/2021. Các cổ đông của Napa G gồm: Ông Ngô Sỹ Việt P sở hữu 40.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 22,85/tổng số vốn điều lệ, ông Nguyễn Ngọc Thanh L1 sở hữu 35.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 20%/tổng số vốn điều lệ, ông Đinh Văn N sở hữu 25.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 14,3%/tổng số vốn điều lệ, ông Lê Cao H1 sở hữu 40.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 22,85/tổng số vốn điều lệ và Công ty TNHH K2 (loại hình TNHH Một thành viên, địa chỉ trụ sở: số E H, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng sở hữu

35.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 20%/tổng số vốn điều lệ).

Công ty TNHH N3 (Sau đây gọi tắt là Napa H3, loại hình TNHH một, có trụ sở cũng tại Tầng B, Tòa nhà B T, phường A, quận S, thànhphố Đà Nẵng, do ông Lê Cao H1 vừa là chủ sở hữu vừa là Giám đốc, người đại diện theo pháp luật. Thực chất đây là công ty sân sau của ông P, ông H1, ông N, ông L1 nhằm chuyển khách hàng, doanh thu, nguồn lực tài chính và nhân viên khỏi Napa G để trục lợi riêng.

Ngày 27/4/2022, Napa G tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên và ban hành Nghị quyết số 01-2022/NQ-ĐHĐCĐTN, kèm theo có Biên bản cuộc họp Đại hội đồng cổ đông số 0022022/BBĐHĐCĐTN. Xét thấy, Nghị quyết này có nhiều nội dung vi phạm pháp luật doanh nghiệp, Điều lệ Napa G và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cổ đông là K2. Cùng ngày 27/4/2022, K2 gửi văn bản yêu cầu Napa G mua lại cổ phần của K2 tại N. Napa G không đồng ý mua lại nên các bên xảy ra tranh chấp, khiếu nại, tố giác tại cơ quan có thẩm quyền.

Quá trình làm việc thì đến ngày 20/10/2022, đại diện các bên gồm K2 và tất cả các cổ đông của Napa G gồm: Ông Ngô Sỹ Việt P, ông Nguyễn Ngọc Thanh L1, ông Đinh Văn N, ông Lê Cao H1 và chủ sở hữu, đại diện theo pháp luật của Napa H2 đã thống nhất thỏa thuận Napa G mua lại 20% cổ phần của K2 sở hữu thông qua định giá Napa G. Theo đó, các bên đã thống nhất như sau:

+ Buộc Công ty Cổ phần N2 thanh toán cho Công ty TNHH K2 số tiền trịCông ty TNHH K2 tại Công ty Cổ phần N2 với tổng số tiền là: 56.167.848.847 đồng (Năm mươi sáu tỷ, một trăm sáu mươiTrong đó, trị giá 20% cổ phần thuộc sở hữu của Công ty TNHH K2 tại Công ty Cổphần N2 là 52.892.840.117 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán là 3.275.008.730 đồng.

+ Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

+ Sau khi Công ty Cổ phần N2 hoàn tất việc thanh toán tiền chuyển nhượng cổ phần thuộc sở hữu của Công ty TNHH K2 tại Công ty Cổ phần N2, Công tyCổ phần N2 phải có nghĩa vụ thực hiện thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh của Công ty liên quan đến việc chuyển nhượng cổ phần nêu trên theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/9/2023, bị đơn Công ty Cổ phần N2 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Ngày 09/11/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 33/QĐ-VC2-KDTM đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Công ty TNHH K2 do ông Nguyễn Bùi Bá H, ông Nguyễn Đình K đại diện theo ủy quyền giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn Công ty Cổ phần N2 do bà Trần Thị Như Q, ông Trương Nguyễn Thiên L, ông Đỗ Việt C đại diện theo ủy quyền giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 33/QĐ-VC2-KDTM ngày 09/11/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Bà Q, ông L, ông C cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phía bị đơn cho rằng, nội dung bản án sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, trái quy định

pháp luật hiện hành, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công tyCổ phần N2 nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH K2.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần thủ tục tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đảm bảo đúng quy định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 33/QĐ-VC2-KDTM ngày 09/11/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

  1. Tại Văn bản số 572/VKS-KDTM ngày 09/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng gửi Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có nêu: Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa vì Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng không chuyển hồ sơ vụ án và Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng. Xét thấy, đây là vụ án tranh chấp có tính chất phức tạp; đương sự trong vụ án đã có đơn gửi cơ quan điều tra và đã được cơ quan điều tra lập biên bản làm việc, phía bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý với biên bản làm việc và có Văn bản ngày 24/02/2023 gửi Công an thành phố Đ; giá trị tài sản tranh chấp rất lớn, bản án sơ thẩm không nhận định rõ lý do Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng không tham gia phiên tòa là không đảm bảo thủ tục tố tụng khi giải quyết vụ án.

    Về việc thẩm định giá: Cùng tài sản của Công ty Cổ phần N2, nhưng theo báo cáo kết quả thẩm định giá của Công ty TNHH T4 thì đối với phương pháp chiết khấu dòng cổ tức thời điểm 24 giờ ngày 31/12/2021 là 55.362.436.384 đồng; còn đối với phương pháp tài sản thời điểm 24 giờ ngày 31/12/2021 là 31.594.976.455 đồng. Trong khi đó, theo Chứng thư thẩm định giá của Công tyCổ phần T3 thì giá trị doanh nghiệp đối với phần vốn chủ sở hữu Công ty Cổphần N2 tại thời điểm ngày 31/12/2021 là 455.077.000.000 đồng; giá trị doanhCông ty Cổ phần N2 tại thời điểm ngày 31/10/2022 là 424.513.000.000 đồng. Như vậy, kết quả thẩm định giá quá chênh lệch, có thời điểm định giá không giống nhau. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn cũng cho rằng việc định giá quá bất hợp lý nên cần phải xem xét thẩm định lại để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự...

  2. Từ những chứng cứ đã được phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 33/QĐ-VC2-KDTM ngày 09/11/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

  3. Do bản án sơ thẩm bị hủy nên số tiền tạm ứng án phí kháng cáo của bị đơn Công ty Cổ phần N2 được hoàn trả lại.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 BLTTDS.

  1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 33/QĐ-VC2-KDTM ngày 09/11/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

    Hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 11/2023/KDTM-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

  2. Về án phí: Hoàn trả cho Công ty Cổ phần N2 2.000.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0009860 ngày 20/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

  • TAND tối cao;

  • VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;

  • TAND thành phố Đà Nẵng;

  • VKSND thành phố Đà Nẵng;

  • Cục THADS thành phố Đà Nẵng;

  • Những người tham gia tố tụng;

  • Lưu HSVA, PHCTP, LT.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

(Đã ký)

Vũ Thanh Liêm

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 11/2024/KDTM-PT ngày 27/05/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty

  • Số bản án: 11/2024/KDTM-PT
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty...
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 27/05/2024
  • Loại vụ/việc: Kinh doanh thương mại
  • Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 33/QĐ-VC2-KDTM ngày 09/11/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 11/2023/KDTM-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Tải về bản án