TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH Bản án số: 09/2023/HS-ST Ngày 11 - 01 - 2023 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
- T phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Tiến Dũng.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Quốc Khánh
Bà Nguyễn Thị Anh Quế
Thư ký phiên tòa: Bà Đoàn Thị Kim Phượng – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Chí Công - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 128/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Chí T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam.Sinh năm: 1967; nơi sinh: Thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: số nhà 8A - 2 tầng số 3, tập thể Đ, phường N, Thành phố N, tỉnh N; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 04/10; họ và tên bố: Nguyễn Xuân L, đã chết; họ và tên mẹ: Lê Thị Kim H, sinh năm 1942, trú tại: số nhà 8A - 2 tầng số 3, tập thể Đ, phường N, Thành phố N, tỉnh N; gia đình có ba anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo ra đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 10/9/2022 đến ngày 19/9/2022 chuyển tạm giam. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định.
* Bị hại: Ông Trần Như H, sinh năm 1964
Nơi cư trú: số nhà 6A - 2 tầng số 3, tập thể Đ, phường N, Thành phố N, tỉnh N.
(Tại phiên tòa có mặt bị cáo, bị hại)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Chí T - sinh năm: 1967, trú tại: Số nhà 8A - 2 tầng số 3, tập thể Đ, phường N, Thành phố N, tỉnh N là hàng xóm với anh Trần Như H - sinh năm:
1964, trú tại: Số nhà 6A - 2 tầng số 3, tập thể Đ, phường N, Thành phố N, tỉnh
N. Trong quá trình ăn ở, sinh sống, giữa T và anh H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn (BL 28, 31).
Khoảng 14 giờ ngày 10/9/2022, T mang một số bìa cát tông ra phơi ở trước cửa nhà mình (là lối đi chung của dãy 2 tầng khu tập thể) rồi sau đó đạp xe đi chơi. Lúc này, anh H đang đứng trước cửa nhà và nhìn thấy liền chửi bới. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, anh H thấy T đi xe đạp về nên chửi T : “Đ.m con nhà chúng mày, cứ phơi ra đường đi chung đi”, T nghe thấy liền chửi lại: “Đ.m ông, ông thích làm cái gì thì làm, cứ nói nhiều”. Anh H tiếp tục chửi T : “Đ.m thằng T , con S làm gì mà mày cứ bắt nạt nó”, ý anh H cho rằng T thường xuyên bắt nạt vợ của mình là chị Trần Thị S - sinh năm 1973. T không nói gì rồi đi vào đứng ở khu vực gian bếp đối diện với số nhà 8B để chuẩn bị nấu canh thì anh H bước từ ngoài vào trong bếp nhà T chửi bới rồi dùng tay phải của mình đấm 01 phát trúng vào vùng trán của T , sau đó anh H bỏ chạy ra ngoài về phía nhà mình. Sau khi bị anh H đánh bất ngờ, T liền lấy cầm trên tay phải 01 con dao dạng dao phay làm bằng kim loại sáng màu dài khoảng 30cm, rộng khoảng 8cm, đầu dao bằng, lưỡi dao dài khoảng 18cm, cán dao làm bằng gỗ màu đen dài khoảng 12cm nhảy ra khỏi cửa bếp nhà mình, chém dọa một phát về phía anh H nhưng không trúng và chửi: “Đ.m thằng H ”. Ngay sau đó, T nhìn thấy anh H chạy vào trong nhà lấy ra 01 (một) đoạn gậy tre dài khoảng 52cm, đường kính 03cm cầm ở tay phải rồi chắp hai tay ra sau lưng, đứng cách T khoảng 03 mét với mục đích để đánh lại T nhưng T không nói gì mà quay vào gian bếp để tiếp tục nấu canh. Lúc này, T vẫn cầm con dao phay ở trên tay phải với mục đích dùng để đánh lại anh H nếu anh H sang đánh mình. Anh H tiến đến trước cửa bếp nhà T và cầm đoạn gậy tre trên đi vào trong gian bếp rồi vụt liên tiếp 03 phát về phía người T , T giơ tay trái lên đỡ rồi giật lấy được đoạn gậy tre từ tay anh H , đồng thời dùng tay phải đang cầm dao vung lên cao, chém 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái trúng vào vùng cổ bên trái của anh H , gây thương tích rách da chảy máu. Sau khi bị T chém thì anh H bỏ chạy về phía nhà mình, T cầm đoạn gậy tre ném về phía anh H nhưng không trúng rồi T quay lại vào trong bếp và đóng cửa. Lúc này, anh H chạy về nhà mình, cầm 01 đoạn gậy inox (loại gậy phơi quần áo) và quay lại gian bếp rồi chọc qua khe cửa bếp về phía T nhưng bị T dùng tay níu, giữ được nên anh H bỏ gậy ra, chạy về bếp nhà mình lấy 01 chiếc gàu hót rác đập liên tiếp vào cửa bếp, lúc này T vẫn giữ chặt cửa bếp. Anh H chạy về phía trước cửa nhà mình thì T liền mở cửa bếp chạy về phía nhà T rồi đóng cửa lại. Anh H thấy vậy liền chạy lại để đánh T nhưng không kịp nên quay vào trong nhà lấy ra 01 chiếc chầy gỗ đập liên tiếp nhiều nhát về phía cửa nhà T nhưng T không mở cửa nên anh H ngồi xuống và chửi T . Một lúc sau, mọi người đến can ngăn và đưa anh H đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định, sau đó được chuyển lên Bệnh viện Việt Đức - Hà Nội để điều trị (BL 28-31)
Hậu quả anh Trần Như H bị các vết bị thương:
Vết thương cổ trái làm đứt hoàn toàn tĩnh mạch cảnh ngoài, cơ vai móng và bán phần cơ ức đòn chũn.
Vết thương rách da ngực trên đường trắng giữa (cán xương ức) có kích thước (1,5 x 0,1) cm.
Vết thương ngón I, II bàn tay phải; gãy đầu xa đốt gần ngón I; gãy nền đốt xa ngón I; gãy đốt xa ngón II.
Ngay sau khi sự việc xảy ra, Nguyễn Chí T đã đến Công an phường N, Thành phố N, tỉnh N để đầu thú và tự nguyện giao nộp 01 con dao là hung khí mà T đã sử dụng để chém gây thương tích cho anh Trần Như H.
Cơ quan CSĐT Công an Thành phố N, tỉnh N đã tiếp nhận tin báo, tiến hành các biện pháp điều tra: Khám nghiệm hiện trường, ghi nhận các dấu vết để lại tại hiện trường, thực nghiệm điều tra đồng thời thu giữ vật chứng cùng 01 đĩa DVD lưu trữ một đoạn video trích xuất từ camera của nhà bà Hoàng Thị L - sinh năm: 1966, trú tại: Số nhà 1A - 2 tầng số 3, tập thể Đ, phường N, Thành phố N, tỉnh N ghi lại toàn bộ nội dung vụ việc. Cơ quan CSĐT Công an Thành phố N, tỉnh Nra Quyết định trưng cầu giám định tỷ lệ thương tích đối với anh Trần Như H theo quy định của pháp luật.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 272/22/TgT ngày 14/9/2022 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Hà Nam, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Trần Như H tại thời điểm giám định là 07%. Cơ chế hình T vết thương: Rách da vùng cổ trái và ngực do vật sắc tác động trực tiếp gây nên; Rách da bàn tay phải do tác động với vật sắc gây nên (BL 159 - 160).
Ngày 10/9/2022, Cơ quan CSĐT Công an Thành phố N, tỉnh N đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam Định để điều tra theo thẩm quyền.
Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định đối với 01 đoạn video được lưu trữ trong 01 đĩa DVD - niêm phong,và Quyết định trưng cầu giám định bổ sung tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích đối với anh Trần Như H.
Tại Bản kết luận giám định số 1431/KL-KTHS ngày 12/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Không phát hiện thấy dấu vết bị cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong toàn bộ mẫu cần giám định (ký hiệu: A) (BL 155).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 333/22/TgT ngày 15/11/2022 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Hà Nam, kết luận:
Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết thương cổ trái làm đứt hoàn toàn tĩnh mạch cảnh ngoài, cơ vai móng và bán phần cơ ức đòn chũm, sau điều trị:
+ Đứt tĩnh mạch cảnh ngoài đã thắt, không ảnh hưởng chức năng: 11%.
+ Sẹo trung bình, không ảnh hưởng chức năng: 04%.
+ Đứt cơ vai móng và cơ ức đòn chũm, đã ổn định: không quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể.
Sẹo nhỏ ngực, không ảnh hưởng chức năng: 01%.
Vết thương bàn tay phải (ngón I, II) làm gãy đầu xa đốt 1 và gãy đầu gần đốt 2 ngón I, gãy đầu xa đốt 3 ngón II, sau điều trị:
+ Gãy xương đốt 1 ngón I, đã can xương: 03%.
+ Gãy xương đốt 2 ngón I, đã can xương: 02%.
+ Gãy xương đốt 3 ngón II, đã can xương: 01%.
+ 02 sẹo nhỏ, không ảnh hưởng chức năng: 01%; 01%.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định: 22% (BL 167 - 168).
Ngày 15/11/2022 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam Định có Công văn số 2062/CV-PC01 đề nghị Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam cho biết: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên bởi vết thương cố trái là bao nhiêu phần trăm. Ngày 17/11/2022, Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Hà Nam có Công văn phúc đáp số 157/TTPY-KGĐ với nội dung: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên vết thương cổ trái tại thời điểm giám định là 15% (BL 172 - 173).
Tại bản cáo trạng số 125/CT-VKS-P2 ngày 30/11/2022 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đã truy tố Nguyễn Chí T về tội “Giết người” quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Chí T đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên, bị cáo ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại Trần Như H có lời khai xác nhận nội dung sự việc đúng như bị cáo khai và thừa nhận trong vụ án này ông cũng có một phần lỗi. Ông đã nhận số tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe là 20 triệu đồng của gia đình bị cáo, nay ông không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 123; Điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, 57 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí T phạm tội “Giết người”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T từ 05 năm tù đến 06 năm tù. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Về chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, những người làm chứng tại cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản xác định thương tích; biên bản khám nghiệm hiện trường; biên bản trích xuất camera; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định pháp y của Trung tâm Pháp y tỉnh Hà Nam; cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án đã được thu thập có trong hồ sơ. Nên đã có đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng 16 giờ ngày 10/9/2022, tại dãy nhà 2 tầng số 3, khu tập thể Đ, P N, TP N, xuất phát từ mâu thuẫn trong sinh hoạt hàng ngày dẫn đến giữa anh Trần Như H và Nguyễn Chí T xảy ra cãi vã, anh H dùng tay đấm vào trán T , dùng gậy tre vụt vào tay T . Nguyễn Chí T giựt được gậy từ tay anh H sau đó dùng 01
con dao, dạng dao phay làm bằng kim loại sáng màu, dài khoảng 30cm, phần lưỡi dao sắc, dài khoảng 18cm, có bề rộng khoảng 8cm, cán dao làm bằng gỗ tối màu dài khoảng 12cm là hung khí nguy hiểm, chém 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái trúng vào vùng cổ bên trái là vùng trọng yếu của anh Trần Như H. Hậu quả làm anh H bị một vết thương ở vùng cổ trái, đứt hoàn toàn tĩnh mạch cảnh ngoài, cơ vai móng, bán phần cơ ức đòn chũm; gây tổn hại sức khỏe cho anh H với tỷ lệ thương tích là 15%. Hành vi của T thể hiện ý thức tước đoạt tính mạng anh H . Anh H không chết là do được cấp cứu kịp thời.
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Chí T đã đủ các yếu tố cấu T tội “Giết người” quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Như vậy quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định là có căn cứ và đúng pháp luật
Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật có khả năng tước đoạt tính mạng người khác nhưng do mâu thuẫn thù tức cá nhân nên vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, thể hiện sự coi thường pháp luật, vì vậy cần xử lý nghiêm bị cáo trước pháp luật mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, Nguyễn Chí T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tác động đến gia đình tự nguyện bồi thường cho bị hại; người bị hại là anh Trần Như H có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo; sau khi phạm tội bị cáo đã đến Công an phường N đầu thú; người bị hại cũng có một phần lỗi nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đường lối xử lý hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo phạm tội chưa đạt nên cần áp dụng Điều 57 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo theo mức đại diện Viện kiểm sát đề xuất là phù hợp, như vậy cũng đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
Về bồi thường thiệt hại: Bị cáo Nguyễn Chí T đã tác động đến gia đình bồi thường cho anh Trần Như H số tiền là 20.000.000đ, anh H đã nhận toàn bộ số tiền trên và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng đã thu giữ
gồm:
01 con dao bằng kim loại sáng màu, dài khoảng 30cm, rộng khoảng
8cm, đầu dao bằng, lưỡi dao dài khoảng 18cm, cán dao làm bằng gỗ màu đen dài khoảng 12cm
01 chiếc áo sơ mi, cổ bẻ, cộc tay, có kẻ sọc màu xanh, mặt trước áo bám dính nhiều chất dịch màu nâu đỏ;
01 đoạn gậy tre dài khoảng 52 cm, đường kính khoảng 03 cm;
01 gậy sáng màu làm bằng inox, dài khoảng 230 cm, đường kính chỗ lớn nhất khoảng 2,5cm;
01 chiếc chày bằng gỗ dài khoảng 32 cm, đường kính chỗ lớn nhất khoảng 5,5 cm.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 123; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, 57 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Án lệ số 47/2021 được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua ngày 25/11/2021 và được công bố theo quyết định số 594 ngày 31/12/2021 của Chánh án TAND tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban th-êng vô Quèc héi quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí T phạm tội “Giết người”
Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/9/2022.
Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) con dao bằng kim loại sáng màu dài khoảng 30cm, phần lưỡi dao dài khoảng 18cm, bề rộng khoảng 8cm, phần cán dao bằng gỗ màu đen, dài khoảng 12 cm;
01 (một) chiếc áo sơ mi cổ bẻ cộc tay, có kẻ sọc màu xanh, mặt trước có áo bám dính nhiều chất dịch màu nâu đỏ;
01 (một) đoạn gậy tre dài khoảng 52 cm, đường kính khoảng 03 cm;
01 (một) gậy phơi quần áo bằng inox dài khoảng 230cm, đường kính chỗ lớn nhất khoảng 2,5cm.
01 (một) chiếc chày bằng gỗ dài khoảng 32 cm, đường kính chỗ lớn nhất khoảng 5,5 cm.
(Vật chứng có đặc điểm, chủng loại như Biên bản giao nhận vật chứng số 43/23 ngày 10/01/2023 giữa Công an tỉnh Nam Định và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nam Định)
Án phí:
Bị cáo Nguyễn Chí T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Chí T, bị hại Trần Như H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA (đã ký)
Nguyễn Tiến Dũng |
Bản án số 09/2023/HS-ST ngày 01/11/2023 của TAND tỉnh Nam Định
- Số bản án: 09/2023/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 01/11/2023
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND tỉnh Nam Định
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Căn cứ khoản 2 Điều 123; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, 57 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Án lệ số 47/2021 được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua ngày 25/11/2021 và được công bố theo quyết định số 594 ngày 31/12/2021 của Chánh án TAND tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban th¬êng vô Quèc héi quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí T phạm tội “Giết người” 2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/9/2022. 3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: - 01 (một) con dao bằng kim loại sáng màu dài khoảng 30cm, phần lưỡi dao dài khoảng 18cm, bề rộng khoảng 8cm, phần cán dao bằng gỗ màu đen, dài khoảng 12 cm; - 01 (một) chiếc áo sơ mi cổ bẻ cộc tay, có kẻ sọc màu xanh, mặt trước có áo bám dính nhiều chất dịch màu nâu đỏ; - 01 (một) đoạn gậy tre dài khoảng 52 cm, đường kính khoảng 03 cm; - 01 (một) gậy phơi quần áo bằng inox dài khoảng 230cm, đường kính chỗ lớn nhất khoảng 2,5cm. - 01 (một) chiếc chày bằng gỗ dài khoảng 32 cm, đường kính chỗ lớn nhất khoảng 5,5 cm. (Vật chứng có đặc điểm, chủng loại như Biên bản giao nhận vật chứng số 43/23 ngày 10/01/2023 giữa Công an tỉnh Nam Định và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nam Định)