Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Quyết định số 29/2023/DS-GĐT ngày 20/07/2023 của Tòa án nhân dân tối cao về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

  • Số quyết định: 29/2023/DS-GĐT
  • Quan hệ pháp luật: Y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
  • Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
  • Ngày ban hành: 20/07/2023
  • Loại vụ/việc: Dân sự
  • Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/5/2021 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Trịnh Thị H và ông Nguyễn Duy T (do bà Trịnh Thị H là người đại diện theo ủy quyền) trình bày:Ngày 17/01/2013, bà H và ông T nhận chuyển nhượng của bà Trịnh Thị O diện tích 125m2 đất (đo đạc thực tế là 139,1m2) thuộc một phần thửa đất số 04, tờ bản đồ số 47, phường Tân L, thành phố Buôn Ma T, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (viết tắt là GCNQSDĐ) ngày 19/4/2011 do Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) thành phố Buôn Ma T cấp cho bà Trịnh Thị O. Khi chuyển nhượng, hai bên có lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và có ông Lê Văn K (là Tổ trưởng Khối 7, phường Tân L) xác nhận trong Hợp đồng. Giá chuyển nhượng diện tích đất nêu trên là 450.000.000 đồng, bên chuyển nhượng đã nhận đủ tiền và bên nhận chuyển nhượng đã nhận đất. Hai bên cũng đã xác định vị trí tứ cận của thửa đất chuyển nhượng như sau: Phía Đông Nam giáp nhà anh K1; phía Tây giáp đất bà Trịnh Thị O; phía Nam giáp đường nhựa; phía Bắc giáp nhà Trung H3, nhà cô Đ. Sau đó, gia đình nguyên đơn đã xây nhà ở, các công trình phụ và giao cho vợ chồng con gái là Nguyễn Thị Thu H1 và con rể là Võ Đình Gia T2 quản lý, sử dụng từ năm 2013 đến nay. Ngày 02/6/2017, bà Trịnh Thị O lập hồ sơ đề nghị tách thửa đất số 04, tờ bản đồ số 47 thành 03 thửa đất. Trên cơ sở đó, Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp lại GCNQSDĐ cho bà O đối với 03 thửa là thửa đất số 392, 393, 394. Trong đó, có GCNQSDĐ số CI 601969 ngày 08/6/2017 đối với thửa đất số 392, tờ bản đồ số 47, diện tích 899,6m2 (đất trồng cây lâu năm). Thửa đất này bao gồm cả phần diện tích đất mà bà O đã chuyển nhượng cho nguyên đơn năm 2013 và có nhà trên đất của gia đình nguyên đơn. Ngày 27/5/2017, bà O thỏa thuận, nhận cọc sang nhượng quyền sử dụng đất với ông Trịnh Ngọc L đối với thửa đất số 392 nêu trên. Tại Văn bản này, bà O và ông L đều xác nhận giáp ranh “Đông nam giáp: Nhà bà Trịnh Thị H”. Như vậy, việc bà O sang nhượng quyền sử dụng đất cho ông L không có phần nhà, đất 125m2 mà bà O đã chuyển nhượng cho gia đình nguyên đơn. Tuy nhiên, tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà O và ông L ngày 11/7/2017 (có công chứng) đối với thửa đất số 392, tờ bản đồ số 47, diện tích 899,6m2, bà O lại sang nhượng toàn bộ thửa đất số 392 cho ông L, bao trùm lên cả phần diện tích đất mà năm 2013 bà O đã sang nhượng cho nguyên đơn. Ngày 01/8/2017, ông L được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất nêu trên. Ngày 09/10/2017, Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp đổi GCNQSDĐ đối với thửa đất số 392 cho ông L với diện tích 899,6m2 (trong đó có 306m2 đất ở và 593,1m2 đất trồng cây lâu năm).
Tải về bản án