Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Quyết định số 09/2023/DS-GĐT ngày 06/04/2023 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Số quyết định: 09/2023/DS-GĐT
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
  • Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
  • Ngày ban hành: 06/04/2023
  • Loại vụ/việc: Dân sự
  • Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/4/2012 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là cụ Huỳnh Thị T (do ông Dương Hồng B là người đại diện theo ủy quyền, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) trình bày: Diện tích 1.838m2 đất đang tranh chấp (nằm trong diện tích khoảng 3.500m2 thuộc thửa cũ 252, 253, 200 tờ bản đồ số 08), nay thuộc thửa mới là 155a, 157a, 158, 159, 160 tờ bản đồ số 20 xã Phú H có nguồn gốc là của cố Huỳnh Thị B2 để lại cho cụ Huỳnh Thị T (mẹ của ông B). Do ông B sống chung với cụ T nên cụ T giao cho ông B trực tiếp quản lý, sử dụng đất từ năm 1975. Năm 1978, ông B lén chuyển nhượng cho ông C diện tích khoảng 1.000m2 đất với giá 15 giạ lúa để trả nợ, không đo đạc xác định ranh giới cũng như không làm giấy tờ gì. Năm 2000, ông Nguyễn Trung C hỏi mượn ông B diện tích đất còn lại khoảng 2.500m2 là đất trũng, ông C có đắp bờ ao xung quanh nuôi tôm, cá. Năm 2008, khi ông C tranh chấp đất với ông Võ Văn H2 thì có nhờ ông B viết “Tờ xác nhận ngày 09/4/2008” xác nhận ông B đã chuyển nhượng cho ông C diện tích 3.500m2 đất nêu trên (có xác nhận của chị ruột ông B là bà Dương Thị N), mục đích là để ông C đòi đất của ông H2 đã lấn chiếm rồi trả lại cho ông B. Sau đó, ông C mới viết tờ hứa hẹn ngày 10/10/2009, hứa giao lại số ruộng 1.900m2 đất đã mượn. Vì nghĩ đất trũng không sản xuất được, sợ đóng thuế, nên ông B không đăng ký, kê khai. Ngày 24/8/2010, vợ chồng ông C, bà Nguyễn Thị Bạch N2 làm giấy thỏa thuận với ông B là 49m2 thửa 252 (nằm trong phần đất 1.000m2 đã chuyển nhượng) chừa 1,2m làm đường cống thoát nước cặp theo trường học Dương Văn T4 và yêu cầu ông B cho lại 5.000.000 đồng để trị bệnh cho con của ông C. Ngày 19/10/2010, ông C hứa giao trả lại đất cho ông B và hẹn ba ngày sau sẽ tiến hành thủ tục nhưng sau đó ông C không trả lại. Hiện nay, phần đất tranh chấp ông C đã làm thủ tục tặng cho ông Nguyễn Văn N1, chị Nguyễn Thị Ngọc N4, chị Nguyễn Thị Ngọc H, chị Nguyễn Thị Ngọc N3 (chị N3 sang tên lại cho anh Nguyễn Văn B1), nên cụ T yêu cầu ông C, bà N2, ông N1, anh B1, chị N3, chị H, chị N4 phải trả lại phần diện tích đất 1.838m2 theo đo đạc thực tế gồm các thửa 155a, 157a, 158, 159, 160 tờ bản đồ số 20 tại xã Phú H, huyện Nhơn T, tỉnh Đồng Nai và yêu cầu:+ Hủy một phần Giấy chứng nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) do Ủy ban nhân dân huyện Nhơn T cấp ngày 31/5/2012 cho ông Nguyễn Văn N1 đối với diện tích 853m2 thuộc thửa đất 155b. + Hủy một phần GCNQSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện Nhơn T cấp ngày 05/9/2013 cho anh Nguyễn Văn B1 đối với diện tích 211m2 thuộc thửa đất 157a. + Hủy GCNQSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện Nhơn T cấp ngày 31/5/2012 cho chị Nguyễn Thị Ngọc N4 đối với diện tích 258m2 thuộc thửa đất 158. + Hủy GCNQSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện Nhơn T cấp ngày 31/5/2012 cho chị Nguyễn Thị Ngọc N4 đối với diện tích 256m2 thuộc thửa đất 159. + Hủy GCNQSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện Nhơn T cấp ngày 31/5/2012 cho chị Nguyễn Thị Ngọc H đối với diện tích 260m2 thuộc thửa đất 160.
Tải về bản án