Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Quyết định số 01/2023/DS-GĐT ngày 04/04/2023 của Tòa án nhân dân tối cao về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

  • Số quyết định: 01/2023/DS-GĐT
  • Quan hệ pháp luật: Y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
  • Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
  • Ngày ban hành: 04/04/2023
  • Loại vụ/việc: Dân sự
  • Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/7/2014, đơn khởi kiện bổ sung ngày 03/11/2014 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Nguyễn Mạnh T trình bày: Ngày 10/5/2001, ông và vợ là bà Nguyễn Thị N lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Duy B và bà Nguyễn Thị Ngọc M với nội dung: Vợ chồng ông nhận chuyển nhượng 140m2 đất tại xóm 2, thôn H, xã Mễ T, huyện Từ L, thành phố Hà Nội của ông B, bà M. Hai bên đã hoàn tất việc giao tiền và nhận đất. Năm 2002, vợ chồng em trai ông là ông Nguyễn Văn T1 và bà Phạm Thị H1 nhận chuyển nhượng 147m2 đất tại xóm 2, thôn H, xã Mễ T, huyện Từ L, thành phố Hà Nội của bà Đỗ Thị B2, anh Đỗ Huy B3. Ngày 15/10/2004, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội có Quyết định số 6815/QĐ-UB về việc thu hồi đất tại thôn H, xã Mễ T, huyện Từ L, thành phố Hà Nội. Thửa đất vợ chồng ông nhận chuyển nhượng của ông B, bà M thuộc trường hợp bị thu hồi. Do vợ chồng ông và vợ chồng ông T1 không nắm được chủ trương đền bù khi thu hồi đất, có nhiều thông tin cho rằng các hộ bị giải tỏa phải nhận tái định cư bằng nhà chung cư nên gia đình ông thấy hoang mang, sợ bị thiệt về tài sản. Bà H1 giới thiệu có anh rể họ là ông Phạm Văn H làm nhà báo, có mối quan hệ rộng, có thể giúp đỡ để nhận đền bù 100% diện tích đất đã bị thu hồi. Sau đó, vợ chồng bà H1, ông T1 đến gặp ông H nhờ giúp đỡ. Ông Hiệp đồng ý nhưng yêu cầu ông T1 lập hai hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thêm tên ông H vào bên nhận chuyển nhượng để ông H can thiệp xin bồi thường tái định cư bằng đất. Tin rằng ông H chỉ giúp chứ không đòi hỏi gì nên ông bà đồng ý theo yêu cầu của ông H. Cuối năm 2004, ông T1 cùng ông H trực tiếp đến gặp bên chuyển nhượng nhờ ký lại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thêm tên ông H vào bên nhận chuyển nhượng, mục đích để hợp thức hóa hồ sơ xin cấp đất, bồi thường khigiải phóng mặt bằng. Ông T1 và ông H đã lập hai bản hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng ghi lùi thời gian lập hợp đồng vào năm 2000 gồm: Hợp đồng đề ngày 10/01/2000, hợp đồng này không phải chữ ký của ông mà do ông T1 tự ký, tên bà Nguyễn Thị Ngọc M thì ghi là Nguyễn Thị Minh N1; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 25/02/2000 giữa bên chuyển nhượng là bà Đỗ Thị B2 và anh Đỗ Huy B3, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn T1 và ông Phạm Văn H.
Tải về bản án