Hệ thống pháp luật

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TỈNH BẮC GIANG Độc lập –Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 215/2022/HS-ST Ngày: 29-11-2022

NHÂN DAH

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Vân Các Hội thẩm nhân dân:

  1. Ông Lương Thanh Văn

  2. Ông Nguyễn Tiến Ngọc

    • Thư ký phiên toà: Ông Lê Duy Tuyên- Thư ký Toà án nhân dân huyện Việt Yên.

    • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên tham gia phiên tòa: Ông Ong Văn Chúc- Kiểm sát viên.

      Ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 223/2022/TLST- HS ngày 08 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 212/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2022 Đ với bị cáo:

      Vũ Xuân M, sinh năm 2003; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Thôn Đa Tiện, xã Xuân Lâm, huyện Thuận T, tỉnh Bắc Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn 07/12; Con ông: chưa xác định; Con bà: Vũ Thị Hồng Ah; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ và con chưa có; Tiền án: Bản án số 89/2021/HSST ngày 12/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thuận T, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tài sản trộm cắp có giá trị 2.978.000 đồng); ngày 09/3/2022 đã chấp hành xong hình phạt; ngày 06/01/2022 đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng; không phải bồi thường về dân sự; Tiền sự: Không; Đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/8/2022 đến nay; Hiện đAg bị tạm giam tại Trại tạm giam Công A tỉnh Bắc GiAg (có mặt).

      • Bị hại:

    • Ah Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 (vắng mặt)

      Nơi cư trú: Thôn Ngoài, xã Cao Xá, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc GiAg.

    • Chị Trần Thị H, sinh năm 1998 (có mặt)

      -Ah Nguyễn Trí Duy M, sinh năm 1993 (vắng mặt)

      Đều cư trú: Thôn Vân GiAg, xã Xuân Vân, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên QuAg.

      • Người làm chứng:

    • Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1963 (vắng mặt)

      Nơi cư trú: Tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc GiAg.

    • Ah Nguyễn T A, sinh năm 1992 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Thôn Đức Liễn, xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc

GiAg.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội

dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong các ngày 02/8/2022 và ngày 19/8/2022, Vũ Xuân M- sinh năm 2003, trú tại thôn Đa Tiện, xã Xuân Lâm, huyện Thuận T, tỉnh Bắc Ninh đã thực 01 vụ “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 01 vụ “Trộm cắp tài sản”; tổng tài sản chiếm đoạt có giá trị 29.000.000 đồng trên địa bàn tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc GiAg, cụ thể như sau:

  • Vụ Trộm cắp tài sản: Do không có tiền chi tiêu nên khoảng 01 giờ ngày 19/08/2022, bị cáo Vũ Xuân M một mình đi bộ đến khu vực khu dân cư dịch vụ thuộc tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc GiAg với mục đích để xem nhà nào sơ hở trộm cắp tài sản. Đến khoảng 02 giờ cùng ngày, M đi đến cửa nhà trọ của Ah Nguyễn T A phát hiện thấy cửa nhà trọ mở. Lúc này, M nhìn vào tầng 1 trong khu nhà trọ có khoảng 10 chiếc xe mô tô, quA sát thấy không có ai trông giữ nên đã đi vào trong kiểm tra thấy có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX FI, màu sơn đen- xám, biển kiểm soát 98H1- 269.56, xe không khóa cổ, khóa càng của Ah Nguyễn Văn T. M đã dắt chiếc xe trên ra khỏi nhà trọ, rồi ngồi lên xe đẩy đi tìm một chỗ để cất giấu xe, ngủ đợi trời sáng đi thay ổ khóa xe. Đến khoảng 06 giờ ngày 19/8/2022, M tiếp tục dắt chiếc xe mô tô trộm cắp được đến quán sửa chữa xe máy của Ah Nguyễn QuAg Huy nói dối là xe của mình bị gãy chìa khóa nên thay ổ khóa điện. Ah Huy kiểm tra ổ khóa và đồng ý thay khóa điện. M dùng máy tính bảng nhãn hiệu Lennovo chụp ảnh chiếc xe mô tô của Ah T đăng lên mạng xã hội để giao bán, được tài khoản facebook Messenger tên “Nguyễn Trường” hỏi mua và M đồng ý bán chiếc xe với giá 3.700.000 đồng, hẹn giao dịch tại khu vực chân cầu vượt cao tốc Hà Nội- Lạng Sơn thuộc địa phận huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sau khi thay ổ khóa điện xong, M trả cho Ah Huy số tiền 370.000 đồng rồi điều khiển xe đi đến khu vực cầu vượt cao tốc Hà Nội- Lạng Sơn thuộc địa phận huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi đến nơi M gặp 01 người đàn ông (M khai không biết tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng), đã bán chiếc xe mô tô trên cho người đàn ông này với giá

    3.700.000 đồng. M đã chi tiêu cá nhân hết số tiền 1.500.000 đồng, còn lại

    2.200.000 đồng cất giữ trên người. Ngày 22/8/2022, Ah Nguyễn Văn T làm đơn trình báo sự việc đến Công A thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên đề nghị xử lý theo pháp luật.

    Ngày 23/8/2022, bị cáo Vũ Xuân M đến Công A thị trấn Nếnh đầu thú và khai nhận về hành vi trộm cắp của mình, giao nộp gồm: 01 máy tính bảng nhãn hiệu Lenovo TB-71941 có số Imei: 869719031275345; số tiền 2.200.000 đồng là tiền bán xe có được.

    Công A thị trấn Nếnh đã kiểm tra máy tính bảng nhãn hiệu Lenovo thu giữ của M. Kết quả tại mục ứng dụng Messenger có tin nhắn của Vũ Xuân M với tài khoản “Nguyễn Trường” liên quA đến việc mua bán chiếc xe mô tô 98H1- 269.56. Công A thị trấn Nếnh đã trích xuất hình ảnh nội dung tin nhắn ra giấy A4 có chữ ký xác nhận của Vũ Xuân M.

    Ngày 24/8/2022, Cơ quA Cảnh sát điều tra- Công A huyện Việt Yên tiến hành khám nghiệm hiện trường, cho Vũ Xuân M xác định vị trí để chiếc xe mô tô của Ah T. Kết quả bị cáo M đã xác định đúng vị trí để chiếc xe mô tô tại bãi để xe tại khu trọ của gia đình Ah Nguyễn T A. Quá trình khám nghiệm hiện trường, đã thu giữ 01 đoạn video clip do camera ninh của gia đình Ah Nguyễn T A ghi lại toàn bộ diễn biến M thực hiện hành vi trộm cắp; hình ảnh trong video đã được trích xuất in ra tờ giấy A4, có chữ ký xác nhận của Vũ Xuân M.

    Ngày 24/8/2022, Cơ quA Cảnh sát điều tra- Công A huyện Việt Yên tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Xuân M tại thôn Đa Tiện, xã Xuân Lâm, huyện Thuận T, tỉnh Bắc Ninh. Kết quả không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì.

    Ngày 27/9/2022, Cơ quA Cảnh sát điều tra- Công A huyện Việt Yên tiến hành cho Ah Nguyễn QuAg Huy nhận dạng qua ảnh. Kết quả Ah Huy nhận được Vũ Xuân M tại ảnh số 05 là người thAh niên đã đến cửa hàng sửa xe của Ah Huy thay ổ khóa điện chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98H1- 269.56 vào ngày 19/8/2022.

    Cơ quA Cảnh sát điều tra- Công A huyện Việt Yên đã thông báo truy tìm chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX FI, màu sơn đen- xám, biển kiểm soát 98H1- 269.56 nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy.

    Tại kết luận định giá tài sản số 119/KL-HĐĐGTS ngày 24/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX FI, màu sơn đen- xám, biển kiểm soát 98H1- 269.56 có giá trị 16.000.000 đồng.

  • Vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Khoảng tháng 7/2022, bị cáo M thuê trọ sống một mình tại khu nhà trọ của ông Nguyễn Văn Đ. Tại đây, M quen biết với vợ chồng chị Trần Thị H và Ah Nguyễn Trí Duy M đAg thuê trọ ở gần phòng trọ của M. M biết vợ chồng Ah M, chị H có 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn trắng- đen- bạc, biển kiểm soát 22B2- 196.00 thường xuyên sử dụng làm pH tiện để đi làm. Do hết tiền chi tiêu cá nhân nên M đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô trên của vợ chồng Ah M, chị

    H. Khoảng 17 giờ ngày 02/8/2022, M gặp Ah M tại khu vực lA cA trước cửa

    phòng trọ của M ở tầng 2. M đã nói dối với Ah M là “Ah cho em mượn xe một tý, em đi chở đồ và người yêu sAg đây ở cùng”. Ah M tin tưởng, đồng ý và nói với chị H đi chợ về đưa chìa khóa xe cho M mượn xe. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, chị H đi chợ về, để chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22B2- 196.00 ở khu vực để xe tầng 1, đi lên cầu thAg ở tầng 2 nhà trọ gặp M. Lúc này, M nói với chị H “Chị cho em mượn chìa khóa xe và xe”; chị H tin tưởng đã đồng ý giao chìa khóa xe và xe mô tô cho M mượn để chở đồ và người yêu sAg ở cùng. Sau khi mượn được xe, M điều khiển xe mô tô đi đến khu vực huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh để tìm nơi tiêu thụ chiếc xe mô tô trên. M sử dụng chiếc máy tính bảng Lennovo chụp ảnh chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn trắng- đen- bạc, biển kiểm soát 22B2- 196.00 đăng bán trên mạng xã hội facebook. Đến sáng ngày 03/8/2022, có tài khoản Messenger mAg tên “Hưng BG” hỏi mua xe, M đồng ý bán chiếc xe này với giá

    3.600.000 đồng, hẹn gặp nhau tại khu vực gần cổng Trường trung học cơ sở Quế Võ 2, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Tại đây, M gặp 01 người đàn ông (M khai không biết tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng) đã bán chiếc xe mô tô trên cho người đàn ông này với giá 3.600.000 đồng. Sau khi bán xe, M đã xóa toàn bộ ảnh xe, bài đăng và tin nhắn mua bán xe trên mạng xã hội facebook và ứng dụng Mesenger; số tiền bán xe có được M đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết. Ngày 23/8/2022, chị Trần Thị H đã làm đơn trình báo đến Công A thị Trấn Nếnh, huyện Việt Yên. Cùng ngày Công A thị trấn Nếnh đã chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quA Cảnh sát điều tra- Công A huyện Việt Yên để giải quyết theo thẩm quyền.

    Ngày 14/9/2022, Cơ quA Cảnh sát điều tra- Công A huyện Việt Yên tiến hành cho Ah Nguyễn Trí Duy M nhận dạng người qua ảnh. Kết quả Ah M nhận ra Vũ Xuân M tại ảnh số 05 là người đã hỏi mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22B2- 196.00 ngày 02/8/2022.

    Ngày 27/9/2022, Cơ quA điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường, không thu giữ được đồ vật tài liệu gì.

    Ngày 14/10/2022, Cơ quA điều tra đã kiểm tra máy tính bảng nhãn hiệu Lenovo thu giữ của bị cáo M. Kết quả không phát hiện thấy nội dung liên quA đến việc mua bán xe mô tô biển kiểm soát 22B2- 196.00 giữa M và tài khoản messengger “Hưng BG”.

    Cơ quA Cảnh sát điều tra - Công A huyện Việt Yên đã thông báo truy tìm chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn trắng- đen- bạc, biển kiểm soát 22B2- 196.00 đến nay chưa có kết quả.

    Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 138/KL-HĐĐGTS ngày 29/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn trắng- đen- bạc, biển kiểm soát 22B2- 196.00 trị giá 13.000.000 đồng.

    Tại Bản cáo trạng số 224/CT-VKS ngày 07/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố bị cáo Vũ Xuân M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

    Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quA điểm truy tố Đ với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xử:

    Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

    Xử phạt bị cáo Vũ Xuân M từ 01 năm 04 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ này tạm giữ, tạm giam ngày 23/8/2022.

    Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

    Xử phạt bị cáo Vũ Xuân M từ 01 năm 02 tháng tù đến 01 năm 04 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 23/8/2022.

    Áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội từ 02 năm 06 tháng tù đến 02 năm 10 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 23/8/2022.

    Về trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

  • Tại cơ quA điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo M T khẩn khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, bị cáo không có ý kiến gì trAh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo không có ý kiến gì.

  • Tại phiên tòa bị hại chị Trần Thị H có mặt trình bày: Về bồi thường: Chị vẫn giữ nguyên yêu cầu bồi thường, đề nghị bị cáo M phải bồi thường cho gia đình chị là 13.000.000 đồng, ngoài ra chị không có yêu cầu gì khác. Về hình phạt Đ với bị cáo chị đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Chị không có ý kiến gì trAh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trAh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

  1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quA điều tra Công A huyện Việt Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quA tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quA tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

  2. Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa bị hại Ah T, Ah M; người làm chứng ông Đ, Ah A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, tại giai đoạn điều tra và truy tố đã có lời khai nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người trên là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292; Điều 293; Điều 305 của Bộ luật tố tụng hình sự.

  3. Về tội dAh: Lời khai của bị cáo M tại phiên tòa hôm nay phù hợp với diễn biến hành vi phạm tội, lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú, vật chứng thu giữ và kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Trong các ngày 02/8/2022 và ngày 19/8/2022, bị cáo Vũ Xuân M đã thực hiện 01 vụ “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 01 vụ “Trộm cắp tài sản”; tổng tài sản chiếm đoạt có giá trị 29.000.000 đồng trên địa bàn tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc GiAg, cụ thể như sau:

    * Vụ thứ nhất: Khoảng 17 giờ ngày 02/8/2022, tại tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc GiAg; bị cáo Vũ Xuân M đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn trắng- đen- bạc, biển kiểm soát 22B2- 196.00 có giá trị

    13.000.000 đồng của vợ chồng chị Trần Thị H và Ah Nguyễn Trí Duy M.

    * Vụ thứ hai: Khoảng 02 giờ ngày 19/8/2022, tại tổ dân phố Mỹ Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc GiAg; bị cáo Vũ Xuân M đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX FI, màu sơn đen- xám, biển kiểm soát 98H1- 269.56 có giá trị 16.000.000 đồng của Ah Nguyễn Văn T.

    Với hành vi nêu trên của bị cáo M đã đủ yếu tố cấu T tội "Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố bị cáo theo tội dAh và điều khoản trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

  4. Xét về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã có hành vi lén lút và lợi dụng lòng tin của bị hại để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản của bị hại, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, vụ án cần phải được xử lý nghiêm tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung Đ với các loại tội phạm trên.

  5. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo M đã T khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú. Nên cần áp

    dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự Đ với bị cáo M. Hội đồng xét xử thấy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định.

  6. Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

    Bị cáo M có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

    Từ những phân tích trên, đánh giá về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong vụ án này bị cáo chưa bồi thường được khoản tiền nào cho các bị hại. Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo với xã hội trong một thời giA mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở T người công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật.

  7. Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định phạt bổ sung bằng tiền, tuy nhiên xét thấy bị cáo M không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền Đ với bị cáo.

  8. Về trách nhiệm dân sự:

    • Quá trình điều tra Ah Nguyễn Văn T yêu cầu bị cáo Vũ Xuân M bồi thường bằng giá trị chiếc mô tô đã định giá 16.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo xác định số tiền 2.200.000 đồng bị cáo tự nguyện giao nộp là tiền bán xe của Ah T, bị cáo nhất trí trả cho Ah T số tiền này và nhất trí trả cho Ah T số tiền 13.800.000 đồng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải trả cho Ah T số tiền trên.

    • Quá trình điều tra Ah Nguyễn Trí Duy M và tại phiên tòa chị Trần Thị H yêu cầu bị cáo Vũ Xuân M bồi thường bằng giá trị chiếc mô tô đã định giá là

      13.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo nhất trí trả cho Ah M, chị H số tiền

      13.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải trả cho Ah M, chị H số tiền trên.

  9. Về vật chứng của vụ án:

    • Đ với số tiền 2.200.000 đồng bị cáo giao nộp là số tiền bị cáo bán xe của Ah T có được nên Hội đồng xét xử xét thấy cần trả cho Ah T số tiền này.

    • Đ với 01 máy tính bảng nhãn hiệu Lenovo TB-71941 có số Imei: 869719031275345 là tài sản của bị cáo M sử dụng vào việc phạm tội. Nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

  10. Các vấn đề khác:

    • Đ với người đàn ông đã mua chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX FI, màu sơn đen- xám, biển kiểm soát 98H1- 269.56. Do bị cáo M không biết tên tuổi địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng nên cơ quA điều tra tách những tài liệu liên quA đến người đàn ông này ra để tiếp tục điều tra làm rõ.

    • Đ với người đàn ông đã mua chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22B2-

      196.00. Do bị cáo M khai không biết tên tuổi địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng nên cơ quA điều tra tách những tài liệu liên quA đến người đàn ông này ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục điều tra làm rõ.

  11. Về án phí: Bị cáo M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và quy định tại Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy bA thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

  12. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Bị hại có quyền kháng cáo theo Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

  1. Về trách nhiệm hình sự:

    Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

    Xử phạt bị cáo Vũ Xuân M 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ này tạm giữ, tạm giam ngày 23/8/2022.

    Căn cứ khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

    Xử phạt bị cáo Vũ Xuân M 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 23/8/2022.

    Căn cứ Điều 55 của Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 23/8/2022.

  2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584; khoản 1 Điều 589 của Bộ luật dân sự;

    Buộc bị cáo Vũ Xuân M phải bồi thường cho Ah Nguyễn Văn T số tiền

    13.800.000 đồng (mười ba triệu tám trăm nghìn đồng).

    Buộc bị cáo Vũ Xuân M phải bồi thường cho Ah Nguyễn Trí Duy M và chị Trần Thị H số tiền 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng).

    Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án Đ với khoản tiền được trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời giA chưa thi hành án.

  3. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

    - Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu Lenovo TB-71941 có số Imei: 869719031275345

    - Trả lại cho Ah Nguyễn Văn T số tiền 2.200.000 đồng (hai triệu hai trăm nghìn đồng) từ tài khoản tạm gửi của Công A huyện Việt Yên số: 3949.0.9048635.00000 tại Kho bạc Nhà nước huyện Việt Yên đến tài khoản

    của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Việt Yên, tỉnh Bắc GiAg tại Kho bạc Nhà nước huyện Việt Yên, tỉnh Bắc GiAg.

  4. Về án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy bA thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

    Buộc bị cáo Vũ Xuân M phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.340.000 đồng (một triệu ba trăm bốn mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

  5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Bị cáo; Bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cường chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nơi nhận: T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

  • TAD tỉnh Bắc GiAg; THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

  • VKSND tỉnh Bắc GiAg;

  • Sở tư pháp tỉnh Bắc GiAg;

  • VKSND huyện Việt Yên;

  • Công A huyện Việt Yên;

  • Chi cục THADS huyện Việt Yên;

  • Bị cáo; Bị hại vắng mặt;

  • Lưu hồ sơ. Nguyễn Thị Vân

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 215/2022/HS-ST ngày 29/11/2022 của TAND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

  • Số bản án: 215/2022/HS-ST
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 29/11/2022
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Bị cáo M phạm tội TCTS
Tải về bản án