xác định cha mẹ cho con
"xác định cha mẹ cho con" được hiểu như sau:
Định rõ một người là cha hoặc một người là mẹ cho con trên cơ sở các quy định của pháp luật.Thông thường, do có sự kiện sinh đẻ nên việc xác định mẹ cho con ít có vướng mắc và tranh chấp. Pháp luật quan tâm đến việc xác định cha cho con. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định việc xác định cha cho con trong hôn nhân và xác định cha cho con ngoài hôn nhân. Xác định cha cho con trong hôn nhân theo Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng”. Như vậy, nếu người phụ nữ đang có chồng mà có thai hoặc sinh con thì chồng của người phụ nữ đó được xác định là cha của đứa trẻ (Xt. Con chung). Nếu người chồng không nhận đứa trẻ là con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định. Việc xác định cha cho con ngoài hôn nhân do Tòa án thực hiện khi có yêu cầu của người con ngoài hôn nhân đã thành niên, người mẹ, người giám hộ của người con chưa thành niên hoặc Viện kiểm sát, Hội liên hiệp phụ nữ, uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tòa án xác định một người đàn ông là cha của con ngoài hôn nhân phải chứng minh được một trong các sự kiện sau:1) trong thời gian người mẹ có thể thụ thai đứa con, người đàn ông bị kiện và người mẹ đứa con đã công nhiên chung sống với nhau như vợ chồng; 2) Trong thời gian có thể thụ thai đứa con, người mẹ và người đàn ông bị kiện đã thương yêu nhau, hứa hẹn kết hôn với nhau, sau đó có con thì họ không kết hôn với nhau nữa; 3) Người mẹ đã bị người đàn ông bị kiện cưỡng dâm hoặc hiếp dâm trong thời gian có thể thụ thai đứa con; 4) Sau khi đứa trẻ được sinh ra, người đàn ông bị kiện đã chăm sóc, yêu thương như con mình; 5) Có thư từ, giấy tờ do người đàn ông bị kiện viết xác nhận đứa trẻ là con của họ.Xác định cha cho con nhằm đảm bảo quyền lợi cho người con về lợi ích vật chất và tinh thần.Định rõ một người là con của cha hoặc của mẹ trên cơ sở các quy định của pháp luật.Xác định con cho cha, mẹ có thể được tiến hành tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người con nếu người cha, người mẹ tự nguyện nhận con và không có tranh chấp. Trong trường hợp có tranh chấp thì người cha, người mẹ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu cha, mẹ là người mất năng lực hành vi dân sự thì người giám hộ của cha, mẹ, Viện kiểm sát, Hội liên hiệp phụ nữ, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em có quyền yêu cầu Tòa án xác định con cho cha, mẹ.Căn cứ xác định con cho cha, mẹ có thể dựa vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ. Nếu người con được sinh ra hoặc được người mẹ có thai trong thời kỳ hôn nhân của cha mẹ thì người con đó là con của cha mẹ. Trong trường hợp người cha yêu cầu xác định con ngoài giá thú của mình thì có thể dựa trên các căn cứ xác định cha cho con ngoài giá thú (xt. Xác định cha, mẹ cho con)Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, xác định cha, mẹ cho con được quy định tại Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2014.