Hệ thống pháp luật

vu khống

"vu khống" được hiểu như sau:

(Hành vi) cố ý đưa ra hoặc cố ý loan truyền những thông tin không đúng sự thật có nội dung xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự, uy tín người khác bằng những hình thức khác nhau như truyền miệng, qua phương tiện thông tin đại chúng, qua đơn thư tố giác...Vu khống là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm danh dự của con người. Do vậy, luật hình sự Việt Nam quy định vu khống là tội phạm thuộc chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người. Theo Bộ luật hình sự năm 1999, hành vi vu khống có thể là hành vi tạo ra thông tin sai sự thật và loan truyền thông tin đó mặc dù biết đó là thông tin sai sự thật. Hành vi vu khống cũng có thể chỉ là hành vi loan truyền thông tin sai sự thật do người khác tạo ra mặc dù biết đó là thông tin sai sự thật. Nội dung của thông tin sai sự thật thể hiện sự xúc phạm đến danh dự, uy tín, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Dạng đặc biệt của vu khống là hành vi bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. Đối với dạng hành vi này, tính nguy hiểm cho xã hội của tội vu khống phụ thuộc nhiều vào loại tội bị vu khống. Do vậy, Bộ luật hình sự đã quy định vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội vu khống.Hình phạt được quy định cho tội vu khống có mức cao nhất là 7 năm tù.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội vu khống được quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.