Hệ thống pháp luật

uỷ nhiệm

"uỷ nhiệm" được hiểu như sau:

Việc chuyển giao cho người khác được quyền làm những việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.Ở đây cần phân biệt rõ về phạm vi, bản chất thực hiện nghĩa vụ của việc uỷ nhiệm so với uỷ thác và uỷ quyền, về mặt bản chất, thì uỷ nhiệm chính là việc thực hiện trách nhiệm thay cho một người khi người đó có thư hoặc giấy uỷ nhiệm. Ví dụ: một sinh viên uỷ nhiệm cho bạn đi trả sách ở thư viện thay cho mình...; hoặc giám đốc đã uỷ nhiệm cho trưởng phòng hành chính thực hiện việc sửa chữa trụ sở...Về mặt phạm vi, nếu uỷ quyền chỉ áp dụng trong những trường hợp cá thể nhất định khi người này uỷ quyền cho người khác một số việc trong phạm vi quyền hành của họ, thì ở uỷ nhiệm là toàn bộ những việc thuộc phạm vi trách nhiệm của một người được uỷ nhiệm sang cho một người khác làm thay.“Uỷ nhiệm" thường được áp dụng khi người ta thực hiện những biện pháp thanh toán không dùng tiền mặt thông qua các ngân hàng giữa các bên hoặc với người thứ ba trong các quan hệ kinh tế, thương mại, dịch vụ nội địa hay quốc tế.Trong việc thanh toán từ các quan hệ thương mại quốc tế, “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” do Phòng Thương mại và Công nghiệp quốc tế ban hành năm 1994 có quy định về biện pháp uỷ nhiệm thanh toán qua ngân hàng, theo đó, một ngân hàng (mở) hành động theo sự uỷ nhiệm của khách hàng, tiến hành thanh toán cho người thứ ba. Bản thân ngân hàng được uỷ nhiệm cũng có thể được quyền: uỷ nhiệm cho một ngân hàng khác thực hiện việc thanh toán; hoặc uỷ nhiệm cho một ngân hàng khác chiết khấu.