tranh tụng
"tranh tụng" được hiểu như sau:
Là các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Toà án với vai trò trung gian, trọng tài.Tố tụng tranh tụng thường được sử dụng rộng rãi ở các quốc gia theo truyền thống luật án lệ như Anh, Mỹ, Úc và một số quốc gia khác chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Mặc dù sử dụng ở nhiều quốc gia, nhưng không phải ở quốc gia nào tố tụng tranh tụng cũng giống nhau. Hệ thống tố tụng tranh tụng có một số điểm đặc trưng sau đây: 1) Trong tố tụng tranh tụng, quyền lực được san sẻ giữa Thẩm phán, Công tố viên, Luật sư và Bồi thẩm đoàn; Thẩm phán (Toà án) luôn giữ vai trò trung lập. Tố tụng tranh tụng đòi hỏi Toà án phải kiềm chế tham gia tìm hiểu về nội dung vụ án cho tới khi các bên trình bày hết các chứng cứ. Cơ quan công tố không gửi cho Toà án các chứng cứ và hồ sơ vụ án, mà chỉ gửi bản cáo trạng tóm tắt và quyết định truy tố. Như vậy, Thẩm phán chủ toạ phiên toà không được nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi xét xử. Thẩm phán chủ yếu nghe các bên tham gia trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án, xem xét các đề nghị của Công tố viên và Luật sư, trao đổi với Bồi thẩm đoàn, trên cơ sở đó đưa ra các phán quyết theo quy định của pháp luật. Trong tố tụng tranh tụng, bên buộc tội và bên bị buộc tội được tự do tranh luận với nhau, có quyền đưa ra các chứng cứ nhằm buộc tội hoặc gỡ tội; 2) Trong hệ thống tố tụng tranh tụng, buộc tội đối với các vụ án ít nghiêm trọng và đơn giản do cảnh sát trực tiếp thực hiện tại phiên tòa, như án vi cảnh, không phạt tù hoặc án phạt tù từ 1 đến 2 năm. Đối với các vụ án nghiêm trọng do Cơ quan công tố truy tố ra tòa nhân danh công quyền. Cơ quan công tố thực hiện việc luận tội trên cơ sở chứng cứ thu thập được từ hoạt động điều tra, nhưng do kết quả hoạt động tố tụng phụ thuộc vào giá trị của chứng cứ có được chấp nhận tại tòa hay không, nên mọi hoạt động của cảnh sát lại phụ thuộc và gắn bó chặt chẽ với Cơ quan công tố. Cảnh sát phải thực hiện theo yêu cầu của Công tố viên về nội dung điều tra, nhưng họ có toàn quyền trong việc quyết định sẽ tiến hành điều tra như thế nào. Cơ quan công tố giữ vai trò chỉ đạo hoạt động điều tra đối với cảnh sát. Cơ quan công tố là cơ quan duy nhất có quyền quyết định truy tố hoặc không truy tố một tội phạm; 3) Xét xử bằng thủ tục Bồi thẩm đoàn được coi là một nguyên tắc cơ bản của hệ thống tố tụng tranh tụng. Sự áp dụng thủ tục Bồi thẩm đoàn nhằm đảm bảo để sự thật của vụ án được phát hiện bởi những công dân bình thường trong xã hội, chứ không phải bởi những vị quan tòa hay những quan chức nhà nước đầy quyền lực; 4) Trong hệ thống tố tụng tranh tụng, cảnh sát có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm. Tuy nhiên, do hoạt động điều tra luôn luôn có quan hệ trực tiếp đến các quyền tự do cơ bản của công dân nên pháp luật của các quốc gia theo hệ thống pháp luật án lệ xác lập cơ chế cho phép Toà án tham gia rất sớm vào một số hoạt động tố tụng hình sự (khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn) nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi lạm quyền của cảnh sát để bảo vệ công dân. Cảnh sát có quyền hạn rộng rãi trong hoạt động điều tra, nhưng quyền hạn đó lại được hạn chế bởi sự can thiệp của Tòa án và những quy định chặt chẽ về chứng cứ; 5) Trong hệ thống tố tụng tranh tụng, Luật sư có một vị trí, vai trò rất quan trọng. Thông thường một phiên tòa tranh tụng bắt buộc phải có Luật sư vốn là một bên "đối tụng". Trong quá trình hoạt động tố tụng, Luật sư hoàn toàn bình đẳng với Công tố viên trong việc điều tra, thu thập và xuất trình chứng cứ. Thậm chí khi thấy rằng có một chứng cứ nào đó có ý nghĩa quan trọng đối với việc bào chữa, nếu không tự mình điều tra thu thập được thì Luật sư yêu cầu cảnh sát hoặc Công tố viên điều tra thu thập. Trong trường hợp Cảnh sát hoặc Công tố viên không đáp ứng được yêu cầu của Luật sư thì Luật sư có quyền đề nghị Toà án để Tòa án yêu cầu Cảnh sát, Công tố viên tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ. Yêu cầu của Toà án mang tính chất bắt buộc đối với cảnh sát và Công tố viên; 6) Do vai trò trung lập của Toà án, tố tụng tranh tụng đòi hỏi các bên phải tự trình bày chứng cứ. Pháp luật quy định không chỉ Cơ quan điều tra, Cơ quan công tố có quyền thu thập chứng cứ, mà cả Luật sư bào chữa và người bị tình nghi phạm tội cũng có quyền thu thập chứng cứ; nghĩa vụ chứng minh được xác định cụ thể cho từng chủ thể tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Tố tụng tranh tụng tuân thủ nguyên tắc bình đẳng giữa các bên trong việc đưa ra chứng cứ. Sự thật khách quan của vụ án được xác lập thông qua việc thẩm vấn và tranh tụng công khai giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội trước Tòa. Cả bên buộc tội và bên bị buộc tội đều có quyền bình đẳng trong việc trực tiếp thẩm vấn bị cáo, người bị hại, người làm chứng, giám định viên... và đưa ra chứng cứ để chứng minh. Việc thu thập chứng cứ được pháp luật về chứng cứ quy định rất chặt chẽ và cụ thể. Mọi hoạt động thu thập chứng cứ phải tuân theo các quy định của pháp luật về chứng cứ; 7) Sự áp dụng khá phổ biến việc mặc cả thú tội là một nét đặc trưng rất nổi bật của tố tụng tranh tụng. Do tính chất phức tạp của việc tranh tụng tại phiên tòa, nhiều khi cơ quan buộc tội (Cơ quan cảnh sát và Cơ quan công tố) không thể tìm ra đủ chứng cứ để có thể “thắng" tại phiên tòa khi họ muốn truy tố một bị cáo nào đó. Do đó, pháp luật đặt ra nhiều quy định để khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép có những thỏa thuận để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số tội, hoặc được giảm hình phạt sau này. Việc mặc cả thú tội được diễn ra giữa Cơ quan cảnh sát, Cơ quan công tố và bị can, bị cáo cùng Luật sư của họ. Thông thường Cơ quan cảnh sát phải nói cho bị can, bị cáo biết họ đã có những bằng chứng gì về bị can, bị cáo, trên cơ sở đó bị can, bị cáo sẽ tham khảo ý kiến Luật sư của họ và cân nhắc có nhận tội hay tiếp tục không khai báo để sau này ra phiên toà sẽ phản bác lại.