Hệ thống pháp luật

trái phiếu

"trái phiếu" được hiểu như sau:

Chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ (gốc và lãi) của tổ chức phát hành đối với người sở hữu.Tổ chức phát hành trái phiếu là chính phủ hoặc doanh nghiệp sau khi bán trái phiếu cho tổ chức, cá nhân thì trở thành người thụ trái (người mắc nợ), có nghĩa vụ trả cho người mua khoản tiền tính theo mệnh giá lúc phát hành kèm theo lãi trái phiếu khi đến hạn thanh toán. Người sở hữu trái phiếu gọi là người đầu tư, người đầu tư trái phiếu thực chất là người cho tổ chức phát hành trái phiếu vay tiền. Trái phiếu là một loại chứng khoán và thường được gọi là chứng khoán nợ. Phổ biến các loại trái phiếu có lãi suất được ấn định trước, nên người sở hữu được hưởng thu nhập ổn định.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, trái phiếu được quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 do Quốc hội khóa 11 ban hành ngày 29 tháng 06 năm 2006: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.”

Ngoài ra "trái phiếu" cũng được hiểu là:

Là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.

(Theo Khoản 3, Điều 6, Luật Chứng khoán 2006)