Hệ thống pháp luật

tội phạm kết thúc

"tội phạm kết thúc" được hiểu như sau:

Hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt không còn xảy ra trên thực tế.Tội phạm kết thúc có thể xảy ra trong các trường hợp sau: 1) Hành vi phạm tội chấm dứt vì chủ thể đã đạt được mục đích như trường hợp kẻ giết người đã dừng lại không đâm tiếp nạn nhân nữa vì nạn nhân đã chết; 2) Hành vi phạm tội chấm dứt vì chủ thể đã bị ngăn cản nên không thực hiện tiếp được như trường hợp người hiếp dâm đã phải dừng lại do bị nạn nhân đâm bị thương; 3) Hành vi phạm tội chấm dứt vì chủ thể đã tự ý dừng lại (trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội) như trường hợp đang cạy cửa nhà người khác để vào trộm cắp tài sản thì dừng lại do không muốn thực hiện tiếp mặc dù không có gì ngăn cản. So với thời điểm tội phạm hoàn thành, thời điểm tội phạm kết thúc có thể xảy ra trước, xảy ra cùng hoặc xảy ra sau thời điểm tội phạm hoàn thành. Việc xác định thời điểm tội phạm kết thúc và phân biệt nó với thời điểm tội phạm hoàn thành có ý nghĩa đối với việc áp dụng một số chế định của luật hình sự như chế định đồng phạm, chế định phòng vệ chính đáng cũng như chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Vấn đề còn có thể tham gia tiếp là người đồng phạm hay không cũng như còn có thể phòng vệ chính đáng được hay không không phụ thuộc vào thời điểm tội phạm hoàn thành mà phụ thuộc vào thời điểm tội phạm kết thúc. Tương tự như vậy, thời điểm để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời điểm tội phạm kết thúc. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các tội kéo dài.