Hệ thống pháp luật

tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

"tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự" được hiểu như sau:

Tình trạng của người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi hoặc khả năng điều khiển hành vi theo các đòi hỏi của xã hội.Hành vi gây thiệt hại cho xã hội do người trong tình trạng trên thực hiện không bị coi là tội phạm vì chủ thể không có điều kiện để có thể có lỗi và như vậy họ không phải chịu trách nhiệm hình sự.Người ở trong tình trạng bị coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn cả hai điều kiện sau: 1) Phải mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần; 2) Không có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi (và như vậy cũng không có năng lực điều khiển hành vi đó) hoặc tuy có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi nhưng không có năng lực điều khiển hành vi đó.Việc xác định một người có thỏa mãn hai điều kiện nêu trên hay không đòi hỏi phải có sự trợ giúp của giám định tâm thần tư pháp.Cần phân biệt tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự với trường hợp tính trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế - trường hợp chủ thể tuy cũng mắc bệnh nhưng chỉ bị hạn chế khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi hoặc khả năng điều khiển hành vi theo các đòi hỏi của xã hội. Hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp này vẫn bị coi là tội phạm. Tuy nhiên, đây là trường hợp trách nhiệm hình sự được giảm nhẹ, vì tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.