Hệ thống pháp luật

tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự

"tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự" được hiểu như sau:

Tình tiết phản ánh không có hoặc làm mất cơ sở của trách nhiệm hình sự.Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự gồm hai nhóm tình tiết. Nhóm tình tiết phản ánh không có cơ sở của trách nhiệm hình sự và nhóm tình tiết làm mất cơ sở của trách nhiệm hình sự.Tình tiết phản ánh không có cơ sở của trách nhiệm hình sự bao gồm: 1) Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể, theo đó chủ thể do mắc bệnh mà mất khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi hoặc mất khả năng điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội; 2) Chưa đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 là chưa đủ 14 tuổi đối với tất cả các tội phạm hoặc chưa đủ 16 tuổi đối với các tội phạm không phải là tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; 3) Sự kiện bất ngờ, đó là trường hợp không có lỗi.Tình tiết làm mất cơ sở của trách nhiệm hình sự bao gồm: 1) Phòng vệ chính đáng, theo đó gây thiệt hại cần thiết cho kẻ tấn công để ngăn chặn sự tấn công đang hoặc sẽ xảy ra ngay tức khắc; 2) Tình thế cấp thiết, việc gây thiệt hại cho người khác để tránh thiệt hại lớn hơn khi không còn cách khác;3) Một số tình tiết tương tự như tình thế cấp thiết mà luật hình sự Việt Nam không có quy định riêng như tình tiết thi hành lệnh cấp trên, tình tiết bị cưỡng bức...; 4) Tình tiết hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 20, 21, 22, 23, 24, 25 và Điều 26 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.