tín dụng thương mại
"tín dụng thương mại" được hiểu như sau:
Tín dụng được thực hiện thông qua việc mua, bán chịu hàng hóa, dịch vụ.Hình thức sơ khai của tín dụng thương mại là kỳ phiếu xuất hiện vào thế kỉ XII, được sử dụng làm phương tiện ghi nhận các khoản nợ giữa các thương nhân. Để đáp ứng nhu cầu thương mại, đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, kỳ phiếu có thêm thuộc tính chuyển nhượng được gọi là thương phiếu.Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, ở các nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước không thừa nhận quan hệ mua bán chịu hàng hóa trong sản xuất, kinh doanh nên tín dụng thương mại không được pháp luật thừa nhận.Trong quan hệ mua bán chịu hàng hóa, dịch vụ, người bán chuyển giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho người mua nhưng chưa được trả tiền ngay. Người mua chịu hàng hóa, nhận dịch vụ cung ứng nhưng chưa thanh toán tiền cho người bán. Trong khoảng thời gian từ khi chuyển giao hàng hóa, dịch vụ đến thời hạn thanh toán, người mua chịu hàng hóa, dịch vụ chiếm dụng vốn tạm thời của người bán và phải hoàn trả theo sự thỏa thuận với người bán. Do đó, về bản chất kinh tế, người bán chịu hàng hóa, dịch vụ là người cho bên mua vay tiền. Hình thức ghi nhận quan hệ tín dụng thương mại là thương phiếu (Xt. Thương phiếu).