Hệ thống pháp luật

tiền thưởng

"tiền thưởng" được hiểu như sau:

Khoản tiền người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ có kết quả lao động cao, vượt trội, phù hợp với hướng khuyến khích của người sử dụng lao động.Trong các quy định của pháp luật) khái niệm tiền thưởng còn được sử dụng khi Nhà nước dùng tiền khuyến khích các cá nhân do họ có công phát hiện các cổ vật, tài sản vô chủ... sung công hoặc đấu tranh chống tội phạm.Tuy nhiên, khái niệm tiền thưởng được sử dụng thông dụng hơn trong lĩnh vực lao động. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tiền thưởng phải được Nhà nước quy định hoặc cho phép thực hiện. Chuyển sang kinh tế thị trường, thời kỳ đầu, tiền thưởng có thể là khoản bắt buộc (thưởng từ lợi nhuận của doanh nghiệp), có thể là khoản tùy nghi (các loại thưởng khác). Hiện nay, tiền thưởng được xác định trên cơ sở quy chế thưởng của đơn vị sử dụng lao động. Căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp và mức độ hoàn thành công việc của người lao động, người sử dụng lao động thưởng cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp. Quy chế thưởng do người sử dụng lao động quyết định sau khi tham khảo ý kiến ban chấp hành công đoàn cơ sở. Tùy theo điều kiện, mục đích của từng đơn vị mà chỉ tiêu, điều kiện thưởng…trong các quy chế thưởng thường là các biện pháp cải tiến kỹ thuật, giải pháp hữu ích, sáng kiến hoặc các thành tích về tiết kiệm nguyên liệu, hoàn thành tốt công việc, làm ra sản phẩm có chất lượng cao…