Hệ thống pháp luật

thuế thu nhập doanh nghiệp

"thuế thu nhập doanh nghiệp" được hiểu như sau:

Thuế thu trên thu nhập của doanh nghiệp còn được gọi là thuế thu nhập công ty, là loại thuế phổ biến trên thế giới.Trước năm 1999, ở Việt Nam hình thức thuế đánh vào thu nhập doanh nghiệp gọi là thuế lợi tức. Từ 01.01.1999, theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành năm 1997, thuế thu nhập doanh nghiệp bắt đầu áp dụng.Thuế thu nhập doanh nghiệp thuộc loại thuế trực thu.Thuế thu vào thu nhập của các doanh nghiệp của các nước quy định phạm vi đối tượng nộp thuế thường có sự phân biệt đối tượng thường trú và đối tượng không thường trú. Nói chung, đối tượng được xem là thường trú có nghĩa vụ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản thu nhập mà không phân biệt thu nhập đó phát sinh ở nước sở tại hay ở nước ngoài. Còn đối tượng được xem là không thường trú chỉ phải nộp thuế đối với thu nhập phát sinh ở nước sở tại. Tuy vậy, căn cứ quy định trong luật để xác định đối tượng thường trú hoặc không thường trú ở các nước có sự khác nhau, ở các nước như Mỹ, Nhật, Thái Lan, Indonesia quy định đối tượng thường trú (doanh nghiệp) là đối tượng được thành lập hay hợp nhất tại nước đó. ở một số nước khác như Malaixia, Xingapo... luật quy định căn cứ để xác định đối tượng thường trú là vai trò quản lý, điều hành của cơ sở đặt ở nước sở tại đối với toàn bộ hoạt động của đối tượng nộp thuế. Nếu cơ sở đặt ở nước sở tại có vai trò là trung tâm quản trị kinh doanh của đối tượng nộp thuế thì nó được xem là đối tượng thường trú ở những nước này.Việc xác định đối tượng là thường trú và không thường trú có ý nghĩa quan trọng đối với việc thi hành các chế độ thuế trực thu trong thu thuế và trong việc thực hiện các hiệp định tránh đánh thuế hai lần ký kết giữa Việt Nam với các nước.Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các tổ chức kinh doanh được xem là đối tượng thường trú theo các tiêu chuẩn: 1) Hoặc thành lập hoặc đăng ký kinh doanh tại Việt Nam; 2) Hoặc cơ sở đặt tại Việt Nam đóng vai trò thực tế điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.Ngoài ra, đối với một doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở kinh doanh mà thông qua cơ sở này doanh nghiệp nước ngoài thực hiện một phần hay toàn bộ hoạt động kinh doanh ở Việt Nam mà mang lại thu nhập thì cơ sở đó được xem là cơ sở thường trú và thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.Đối với cá nhân người nước ngoài, các quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam không phân định nghĩa vụ thuế theo điều kiện thường trú hay không thường trú, nếu có thu nhập thuộc diện chịu thuế thì phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Nhà nước Việt Nam.Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế suất tỷ lệ. Theo quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003, mức thu thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng chung cho tất cả các loại doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.