Hệ thống pháp luật

thuế tài nguyên

"thuế tài nguyên" được hiểu như sau:

Thuế thu trên trị giá tài nguyên thiên nhiên mà tổ chức, cá nhân khai thác thuộc chủ quyền của Việt Nam.Ở Việt Nam, trước cải cách hệ thống pháp luật thu ngân sách nhà nước (năm 1990) không có thuếtài nguyên, về nguyên tắc, tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt ngành nghề, hình thức khai thác, có địa điểm cố định hay lưu động, hoạt động thường xuyên hay không thường xuyên, tổ chức cá nhân trong nước hay nước ngoài có khai thác tài nguyên thiên nhiên thuộc chủ quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì đều có nghĩa vụ đến nộp thuế tài nguyên.Theo quy định của pháp luật phạm vi áp dụng thuế tài nguyên bao gồm: khoáng sản kim loại (sắt. kẽm, chì...), than mỏ, than bùn, dầu mỏ khí đốt, khoáng sản không kim loại (đá nung vôi, đất làm gạch, cát làm thủy tinh...), sản phẩm rừng tự nhiên (các loại gỗ, tre, nứa, các đặc sản dược liệu như trầm hương, hồi, quế, chim, thú quý...), thủy sản tự nhiên (thủy sản trên sông ngòi, hồ tự nhiên, thủy sản biển, tổ yến, đổi mồi...), nước dùng cho sản xuất thủy điện và các loại tài nguyên khác. Căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác, giá tính thuế và thuế suất