Hệ thống pháp luật

thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài

"thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài" được hiểu như sau:

Thuế đánh vào thu nhập của nhà đầu tư nước ngoài có được từ hoạt động đầu tư ở Việt Nam mà chuyển ra nước ngoài hoặc giữ lại ngoài Việt Nam.Đối tượng nộp thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài là nhà đầu tư nước ngoài hoạt động đầu tư tại Việt Nam thuộc diện áp dụng Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có thu nhập do đầu tư tại Việt Nam - kể cả phần thu nhập doanh nghiệp được hoàn lại do tái đầu tư và lợi nhuận thu được do chuyển nhượng vốn, khi họ chuyển ra nước ngoài hoặc giữ lại ngoài Việt Nam. Thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài lần đầu tiên được quy định tại Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua ngày 29.12.1997.Thuế chuyển thu nhập được áp dụng theo từng lần phát sinh thu nhập chịu thuế. Mức thu thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài theo tỷ lệ % tính trên thu nhập chịu thuế. Sau thời gian dài áp dụng, thực tế cho thấy, việc Nhà nước thu loại thuế này không bảo đảm quyền tự chủ của nhà đầu tư nước ngoài trong việc sử dụng thu nhập, không bảo đảm sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế so với nhà đầu tư trong nước, không phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 09/2003/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 17.6.2003 đã bãi bỏ thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài. Như vậy, thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài được áp dụng tại Việt Nam kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1997 có hiệu lực thi hành và chấm dứt thi hành kể từ ngày 01.01.2004 khi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 có hiệu lực thi hành.