thuế chuyển quyền sử dụng đất
"thuế chuyển quyền sử dụng đất" được hiểu như sau:
Thuế thu đối với người sử dụng đất khi họ được Nhà nước cho phép chuyển quyền sử dụng đất cho người khác.Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất được ban hành lần đầu tiên ở nước ta vào năm 1994, sau khi Luật đất đai năm 1993 ra đời cho phép người sử dụng đất nói chung và hộ gia đình, cá nhân nói riêng được Nhà nước giao đất được chuyển quyền sử dụng đất trong thời hạn giao đất và được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 1999. Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất đề cập những nội dung cơ bản sau đây: 1) Đối tượng nộp thuế là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất, khi chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai đều phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, trừ các trường hợp: Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trả lại đất cho Nhà nước hoặc Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật về đất đai; Nhà nước bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước cùng với chuyển quyền sử dụng đất cho người mua nhà; chuyển quyền sử dụng đất trong trường hợp ly hôn, thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; chuyển quyền sử dụng đất giữa: vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau; tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất có chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuê; tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất có chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuê; người nhận quyền sử dụng đất thuê tiếp tục thực hiện chế độ thuê đất theo quy định của Luật đất đai; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hiến quyền sử dụng đất cho uỷ ban nhân dân các cấp hoặc cho tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế để xảy dựng các cơ sở văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao; để xây dựng các cơ sở từ thiện gồm nhà tình thương, tình nghĩa, nhà trẻ mồ côi, nhà dưỡng lão, nhà nuôi dưỡng người già cô đơn và người tàn tật, các cơ sở có tính chất nhân đạo khác mà không nhằm mục đích kinh doanh theo dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc chấp thuận phù hợp với quy hoạch; 2) Đối tượng chịu thuế là giá trị diện tích đất chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật, kể cả đất có nhà và các công trình trên đó; 3) Căn cứ tính thuế chuyển quyền sử dụng đất là diện tích đất chuyển quyền, giá đất và thuế suất thuế chuyển quyền sử dụng đất. Theo đó, diện tích đất tính thuế chuyển quyền sử dụng đất là diện tích đất thực tế chuyển quyền ghi trong hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất được uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xác nhận đối với đất của hộ gia đình; Sở Tài nguyên và Môi trường xác nhận đối với tổ chức. Giá đất tính thuế chuyển quyền sử dụng đất là giá do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định theo khung giá các loại đất của Chính phủ và được niêm yết công khai tại cơ quan thuế, cơ quan địa chính. Thuế suất là 2% khi chuyển quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối và 4% khi chuyển quyền sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình và các loại đất khác; 4) Các trường hợp được miễn thuế chuyển quyền sử dụng đất gồm: hộ gia đình, cá nhân chuyển quyền sử dụng đất để di chuyển đến định cư tại các vùng kinh tế mới, miền núi, hải đảo theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; người được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" có chuyển quyền sử dụng đất; chuyển quyền sử dụng các loại đất thuộc xã nông thôn ở miền núi, hải đảo theo quy định của Chính phủ; chuyển đổi đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối cho nhau để phù hợp với điều kiện canh tác; tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để đầu tư xây dựng nhà ở để bán, xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất gắn với nhà hoặc gắn với kết cấu hạ tầng thì được miễn thuế chuyển quyền sử dụng đất tương ứng với diện tích đã nộp tiền sử dụng đất theo từng dự án; 5) Các trường hợp giảm thuế chuyển quyền sử dụng đất với mức giảm là 50% thuế chuyển quyền sử dụng đất đối với những người sau đây: cá nhân thương binh hạng 1/4, hạng 2/4 và bệnh binh hạng 1/3, hạng 2/3; thân nhân liệt sĩ được hưởng chế độ trợ cấp của Nhà nước; người tàn tật không còn khả năng lao động, người chưa đến tuổi thành niên và người già cô đơn mà không nơi nương tựa.Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội Khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua đã quy định Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai, trong đó có thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất. Vì vậy, hiện nay Nhà nước đang có kế hoạch thay thế việc thu thuế chuyển quyền sử dụng đất bằng thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất nhằm đáp ứng đòi hỏi của quản lý đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường và phù hợp với xu hướng cải cách hệ thống thuế của nước ta cho tương thích với hệ thống thuế của các nước trên thế giới.