Hệ thống pháp luật

thống kê đất đai

"thống kê đất đai" được hiểu như sau:

 (Nhà nước) tổng hợp, đánh giá trên hồ sơ địa chính về hiện trạng sử dụng đất tại thời điểm thống kê và tình hình biến động đất đai giữa hai lần thống kê.Thống kê đất đai là một biện pháp để các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai nắm bắt được kịp thời, thường xuyên tình hình sử dụng và những biến động đất đai; đồng thời, thống kê đất đai cung cấp thông tin, số liệu chính xác về mặt khoa học cho công tác lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai.Luật đất đai năm 2003 quy định về thống kê đất đai như sau: 1) Việc thống kê, kiểm kê đất đai được thực hiện theo quy định; đơn vị thống kê, kiểm kê đất đai là xã, phường, thị trấn; việc thống kê đất đai được tiến hành một năm một lần; việc kiểm kê đất đai được tiến hành năm năm một lần; 2) Trách nhiệm thực hiện việc thống kê, kiểm kê đất đai được quy định như sau: uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện việc thống kê, kiểm kê đất đai của địa phương; Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, xã, phường, thị trấn báo cáo kết quả thống kê, kiểm kê đất đai của địa phương lên ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp; Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo kết quả thống kê, kiểm kê đất đai lên Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng hợp báo cáo Chính phủ kết quả thống kê đất đai hàng năm, kết quả kiểm kê đất đai năm năm của cả nước; Chính phủ báo cáo Quốc hội kết quả kiểm kê đất đai năm năm đồng thời với kế hoạch sử dụng đất năm năm của cả nước. 3) Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định biểu mẫu và hướng dẫn phương pháp thống kê, kiểm kê đất đai (Điều 53). 

Ngoài ra "thống kê đất đai" cũng được hiểu là:

Là việc Nhà nước tổng hợp, đánh giá trên hồ sơ địa chính về hiện trạng sử dụng đất tại thời điểm thống kê và tình hình biến động đất đai giữa hai lần thống kê.
(Theo khoản 17 Điều 3 Luật đất đai 2013)