Hệ thống pháp luật

thoả ước lao động tập thể

"thoả ước lao động tập thể" được hiểu như sau:

Thỏa thuận (bằng văn bản) giữa đại diện tập thể lao động (hoặc đại diện giới lao động) và người sử dụng lao động (hoặc đại diện giới sử dụng lao động) về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động.Trên thế giới, thoả ước lao động tập thể đầu tiên ra đời ở Anh, vào cuối thế kỉ XVIII, sau đó được thực hiện tại nhiều nước công nghiệp châu Âu. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng có hai công ước về thỏa ước lao động tập thể (Công ước số 98/1949 và Công ước 154/1981).Tại Việt Nam, thỏa ước lao động tập thể được quy định đầu tiên tại sắc lệnh số 29/SL năm 1947. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thỏa ước lao động tập thể được gọi là hợp đồng tập thể. Hiện nay, thoả ước lao động tập thể chủ yếu được áp dụng trong các doanh nghiệp, có thể được ký kết ở cấp ngành, được gọi tắt là thoả ước tập thể.Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc thương lượng và ký kết thoả ước tập thể phải tuân thủ các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và công khai theo trình tự, thủ tục và khoảng thời hạn luật định. Nội dung thỏa ước lao động tập thể không được trái với quy định của pháp luật. Mọi thỏa thuận trong hợp đồng lao động và các quy định về lao động khác trong đơn vị sử dụng lao động phải phù hợp với nội dung của thoả ước tập thể. Việc ký kết thoả ước tập thể làm cho quan hệ lao động ổn định. Nhà nước khuyến khích việc ký kết thoả ước tập thể với những quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật lao động.Thoả ước tập thể có hiệu lực từ ngày mà hai bên thỏa thuận ghi trong thỏa ước, trường hợp không có thoả thuận thì thoả ước có hiệu lực từ ngày ký.Thoả ước tập thể có thể bị coi là vô hiệu một phần hoặc toàn bộ nếu được kí kết trái quy định của pháp luật từ nội dung đến người ký kết hoặc trình tự ký kết trái pháp luật.Thỏa ước tập thể được ký kết với thời hạn từ một năm đến ba năm, đối với doanh nghiệp lần đầu ký kết thoả ước tập thể thì thời hạn có thể dưới một năm. Thoả ước tập thể có thể sửa đổi, bổ sung nhưng phải sau ba tháng thực hiện đối với thỏa ước có thời hạn dưới một năm và sau sáu tháng đối với thỏa ước có thời hạn từ một năm đến ba năm. Việc bổ sung, sửa đổi được tiến hành theo trình tự như khi ký kết.