Hệ thống pháp luật

thị trường chứng khoán

"thị trường chứng khoán" được hiểu như sau:

Nơi mua, bán chứng khoán.Thị trường chứng khoán manh nha hình thành từ thời trung cổ với hình thức mua bán chứng từ ghi nhận các khoản nợ giữa các thương nhân. Đến năm 1435, thương nhân từ nhiều nước thường xuyên gặp nhau ở một quảng trường ở nước Bỉ để mua bán kỳ phiếu nước ngoài và đây được coi là nơi có hình thức giao dịch chính thức đầu tiên của thị trường chứng khoán. Cùng với quá trình phát triển của thương mại, các hình thức chứng khoán cũng ngày càng đa dạng, các phương thức tổ chức mua, bán chứng khoán cũng phát triển theo các thành tựu của khoa học và công nghệ.Hàng hoá của thị trường chứng khoán là các loại chứng khoán (Xt. chứng khoán). Căn cứ vào việc mua, bán chứng khoán lần đầu hay mua bán lại, thị trường chứng khoán được chia làm hai bộ phận: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán sơ cấp là nơi chứng khoán được người phát hành chứng khoán bán cho tổ chức, cá nhân. Thị trường chứng khoán thứ cấp là nơi diễn ra việc mua, bán lại chứng khoán. Hình thức tổ chức của thị trường chứng khoán thứ cấp là Trung tâm giao dịch chứng khoán (sở giao dịch chứng khoán). Ở Việt Nam, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tương tự các nước xã hội chủ nghĩa khác, Nhà nước không có chủ trương xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán. Năm 1990, Luật công ty được ban hành có các quy định về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của Công ty cổ phần, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành thị trường chứng khoán sơ cấp. Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11.7.1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán là văn bản pháp luật đầu tiên quy định có hệ thống về thị trường chứng khoán.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, thị trường chứng khoán được quy định tại Luật chứng khoán năm 2006 do Quốc hội khóa 11 ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006.